Người Ngoại Bang Tây Phương (1920 - 1922)
Sher Singh người cha già đã dâng hiến cảm tạ Chúa, điều này khẳng định rằng Sadhu có thể nhận lời mời đi thăm các nước Tây Phương.
Vào tháng Giêng 1920, ông lấy giấy tàu tên là City ofCai - ro để đi Anh quốc.
Vì sự tò mò của nhiều người đã làm cho ông khó chịu. Tại Anh quốc cũng như tại Hoa kỳ, vụ Sadhu Sundar Singh đến thăm viếng trở nên khó khăn hơn. Ông thật sự hoàn toàn không biết cách nào xuất hiện với những người ngoại quốc này. Dĩ nhiên, chiếc áo cà sa vàng của ông phải bị loại bỏ, còn mặc đồ tây phương thì ông khẳng khái từ chối. Nhưng có điều ông quan tâm về cái nhìn soi bói, tàn nhẫn của những người xa lạ vì nghĩ mình như là một môn đồ phải chịu đựng vì sứ mạng của mình. Ông biết mình có một sứ mạng tại vùng Tây phương này và ông không thể nào quên được
Vào tháng Giêng 1920, ông lấy giấy tàu tên là City of
Vì sự tò mò của nhiều người đã làm cho ông khó chịu. Tại Anh quốc cũng như tại Hoa kỳ, vụ Sadhu Sundar Singh đến thăm viếng trở nên khó khăn hơn. Ông thật sự hoàn toàn không biết cách nào xuất hiện với những người ngoại quốc này. Dĩ nhiên, chiếc áo cà sa vàng của ông phải bị loại bỏ, còn mặc đồ tây phương thì ông khẳng khái từ chối. Nhưng có điều ông quan tâm về cái nhìn soi bói, tàn nhẫn của những người xa lạ vì nghĩ mình như là một môn đồ phải chịu đựng vì sứ mạng của mình. Ông biết mình có một sứ mạng tại vùng Tây phương này và ông không thể nào quên được
Ông hy vọng tìm thấy Anh quốc là một quốc gia Cơ đốc giáo. Trái lại ông khám phá ra rằng đó là một đất nước đã bỏ quên Ðức Chúa Trời và là nơi tinh thần đông phương đã ăn rễ sâu nay thay bằng chủ nghĩa duy vật chống nghịch tàn nhẫn. Ông nhận thấy phần đất Âu châu và Úc châu rất tệ hại và ông tin rằng Mỹ châu còn tồi tệ hơn nữa. Ðầu tiên ông lưu lại Birmingham , rồi đến Oxford và Luân đôn. Bất cứ nơi nào ông đi, đoàn người đông đúc tụ họp lại. Câu chuyện về ông được viết trên nhật báo chẳng thiện cảm và không hiểu biết. Có một lúc ông không chịu nỗi sự đè nặng của ban tổ chức, với lại phải mang giày, mặc áo choàng ngoài là việc chưa quen làm. Ngay sau đó, ông từ chối mặc áo choàng, với lý do rằng đã từng quen với cái rét buốt của Hy mã lạp sơn, Anh quốc không đủ lạnh cho ông. Bất cứ khi nào thấy thuận tiện ông đều làm như thế , ông tránh đi xe buýt, tàu lửa, xe điện vì chẳng bao lâu ông nhận thấy rằng đoàn người chen chúc, xô đẩy nhau với các bộ mặt hung hăng đã kéo tâm linh an bình của ông đi vào cơn gió lốc.
Tĩnh nguyện quả thật là không dễ dàng. Thật là khó để nhận thức rằng những nhóm quần chúng đông đảo này chẳng nghĩ gì khác ngoài sự bảo hiểm an toàn, chuyện làm ăn, thương mại, tiền bạc. Họ có thể đói khát tâm linh như những người đông phương của ông. Tại Hoa kỳ ông lại càng khốn khổ hơn, ngay sau khi đến nơi, cuộc vận động công cộng đã được dàn xếp trong thời gian ông lưu trú, nó làm cho ông kinh tởm khi khám phá ra rằng những cổ động viên hy vọng thực hiện một vụ làm ăn lớn để kiếm tiền cho đôi bên: cho họ và cho ông qua các buổi hội họp. Chương trình chẳng có gì với các Hội thánh, người ta làm cho ông an lòng bằng cách giao việc sắp xếp cho bạn bè của ông mà sự mơ ước duy nhất của họ là ông có thể nói chuyện với Hoa kỳ về Tin lành như ông đã từng làm tại Ðông phương. Nhưng ông Sadhu nhận thấy ông không thể nói giống như vậy tại miền Tây Phương này. Ấn độ là một quốc gia tôn giáo. Tây phương hoàn toàn khác hẳn về gia trị thuộc linh. Sứ mạng của ông là để họ thấy chính họ như ông nhìn thấy họ vậy. Hằng trăm người lấy làm bực mình về những lời đoán định và phê phán ngay thẳng đã làm mất lòng họ mà người thánh hiền từ Ðông phương ba mươi tuổi này không chút ngại ngùng công bố. Họ cho rằng ông không biết gì những ràng buộc của đời sống kỹ nghệ và sự căng thẳng trong mối giao dịch thương mại hiện đại.
Dù vậy, hàng ngàn người lắng nghe và cảm động, thách thức được biến đổi bởøi sự giảng dạy của ông. Ông là người chẳng e sợ khi tố cáo cũng như lúc nhẹ nhàng nhắn nhủ. “ Tôi tìm thấy một hòn đá ở giữa dãy núi Hy mã lap sơn. Nó trống rỗng và khi tôi đập bể ra tôi tìm thấy bên trong hoàn toàn khô ráo. Cũng như vậy, nơi phương trời Tây phương, quý vị đã nằm nghỉ hằng bao nhiêu thế kỷ trong nước của Cơ đốc giáo nhưng nước ấy không thấm thấu vào lòng quý vị” Ông nói với khán giả như vậy. Không một khán giả nào có thể giữ lòng cứng trơ khi họ nhìn vào cặp mắt lấp lánh trên khuôn mặt màu da olive, với râu quai hàm đen, giọng nói mềm mại và khẳng khái của ông khi công bố : “ Trong ngày phán xét, người không tin Chúa tai Ðông phương sẽ lãnh án nhẹ hơn quý vị tại Tây Phương. Họ chưa bao giờ nghe Tin lành. Còn quý vị đã từng có cơ hội nhưng quý vị bỏ rơi”.
Ông giảng những lời của Chúa Jesus làm khích động người Mỹ bằng cách quả quyết rằng Chúa của ông đã gọi họ: “ hỡi những kẻ gánh nặng với vàng bạc, hãy đến cùng ta. Ta sẽ cho các con được an nghỉ”. Từ Hoa kỳ ông trở về lại Ấn độ, ghé ngang Honolulu , Úc châu và Tích lan. Bất cứ nơi nào ông đến, ông đều nói: “ Công việc của tôi là rao giảng” Một số người khi đã nghe qua ông thuyết giảng, thật khó cho họ quên ông. Ông về Ấn độ vào cuối mùa xuân và sau khi giảng lưu hành tại các Ðại Hội Cơ đốc hay các buổi hội thảo, ông lên đường về phía Hy mã lạp sơn để qua Tây Tạng. Sự lỗ mãng của những ngưỡi Phật giáo Tây tạng, những mối hiểm nguy của các vực thẳm trên dãy núi Hy Mã Lạp Sơn và những chiếc cầu băng tuyết đang chờ đón ông sau những vụ cự tuyệt thuộâc linh mà ông đã phải chịu đựng tại các nước Tây Phương. Và điều làm chúng ta ngạc nhiên là ông chịu nhận lời sang Âu châu một lần thứ hai trong vòng hai năm tới. Một trong những lý do ảnh hưởng đến quyết định của ông là nhân dịp trên đường viếng thăm Palestine , ông có thể ghé qua Anh quốc. Ông đã mong chờ điều này từ lâu để khi có cơ hội đến thì nắm lấy.
Có những lúc tấm lòng ông thổn thức khi ông thực hiện chuyến hành hương đi trên những đường phố thiêng liêng và nhưng nơi đất thánh trong câu chuyện Phúc âm. Lần này ông không ghé Hoa kỳnhưng viếng thăm nhiều nước Âu châu trước khi kết thúc chuyến đi Anh quốc, Pháp, Thụy sĩ, Hòa lan, Thụy điển, Ðan Mạch, Ðức quốc, tất cả các nơi đều tiếp đón chu đáo và kính nể. Nhưng vừa lúc ông đến Anh quốc thì ông bị đuối sức. Viêc chính của ông tại Anh quốc là tham dự những buổi hội họp được sắp sẵn. Ông thường quen nói chuyện trong những đại hội về sự sâu nhiệm của đời sống thuộc linh hơn là nói chuyện tổng quát trước công chúng. Chính ông cũng nghi ngờ rằng không biết mình có đạt được thành quả tốt đẹp nhân chuyến viếng thăm này không.
Tuy nhiên, sự thách thức cho Giáo Hội thật là dữ dội và ảnh hưởng ông trên từng cá nhân thật không thể tính được. Chính dáng điệu của ông làm cho lời nói của ông có uy quyền. Người đầy tớ mở cánh cửa trước rồi chạy vào báo cho bà chủ rằng Chúa Jesus đã đến nhà và những đứa trẻ con chơi với Ngài trên thảm, sau lại muốn Chúa Jesus đưa các trẻ đó vào giường ngủ. Ðó là cách trình bày duy nhất bằng lời mà ai đã gặp ông cũng đều nghĩ như vậy. Cái dáng dấp giống Chúa Jesus của ông cũng hòa hợp với đức tính hiền hòa và uy quyền trên thái độ và tinh thần. Không có gì làm cho ông đau buồn bằng sự chia rẽ và sự không đoàn kết của các Hội Thánh Tây Phương. “ Làm thế nào những Cơ đốc nhân vào sống với nhau trong nước thiên đàng khi mà họ không thể sống chung với nhau ở trần gian?” Ông hỏi đi hỏi lại như vậy. Ông ao ước một ngày các Hội Thánh hiệp một. Ông trở về Ấn độ vào năm 1922, dù có thể ông không biết nhưng một vài tín hữu Cơ đốc người Ấn thân thích của ông ở miền Nam đã bàn đến và lập kế hoạch cho sự hợp nhất ấy. Thật ra chưa có hình thức cụ thể nào trong Hội thánh miền Nam Ấn cho đến hai mươi năm sau khi Sadhu qua đời, nhưng gương của ông với lời kêu gọi đã dự phần trong việc củng cố Hội Thánh mà ông đã từng mơ ước.