Thứ Sáu, 13 tháng 7, 2012

Nhu Mì Và Yên Nghỉ



“Phước cho những kẻ nhu mì, vì sẽ hưởng được đất”
(Ma-thi-ơ 5:5)

Ta có thể trình bày chính xác khái niệm “chủng tộc loài người” với một người hoàn toàn không biết tí gì về nó bằng cách xoay mặt trái của Các Phước Lành lại, và nói rằng: “Đây là chủng tộc loài người.” Vì những điều trái ngược với các tiêu chuẩn đạo đức trong Các Phước Lành chính xác là những đức tính phân biệt đời sống và hành vi của con người.



Trong thế giới loài người, chúng ta không thấy có điều gì gần với những đức tính Đức Chúa Jêsus đã nói trong Bài Giảng Trên Núi, vốn rất nổi tiếng. Thay vì sự nghèo khó thuộc linh, chúng ta tìm thấy sự kiêu ngạo; thay vì những người than khóc, chúng ta tìm thấy những kẻ tìm kiếm trụy lạc; thay vì sự nhu mì, chúng ta tìm thấy sự ngạo mạn; thay vì sự đói khát công bình, chúng ta nghe con loài người nói, “Ta giàu, ta nên giàu có rồi, không cần chi nữa”; thay vì lòng nhân từ, chúng ta thấy sự tàn bạo; thay vì sự tinh sạch của lòng, chúng ta tìm thấy những mơ tưởng đồi bại; thay vì những người làm cho người khác hòa thuận, chúng ta tìm thấy những con người hay cự cãi, và đầy căm phẫn; thay vì vui mừng trong nghịch cảnh, chúng ta thấy họ chống trả lại bằng mọi thứ vũ khí họ có.

Xã hội văn minh được hình thành trên sự suy đồi đạo đức này. Bầu không khí cũng đóng góp vào đó; chúng ta hít nó vào, uống nó với dòng sữa mẹ. Văn hóa và giáo dục gạn lọc những điều này cách hết sức sơ sài, song về căn bản, vẫn chẳng đụng chạm gì đến chúng. Toàn bộ thế giới văn chương đã được tạo nên để bào chữa cho loại đời sống này, cho rằng nó rất bình thường. Và còn đáng ngạc nhiên hơn khi thấy rằng chúng là những điều ác biến cuộc đời chúng ta thành một cuộc chiến cay đắng. Tất cả những nỗi đau và rất nhiều những căn bệnh thể xác của chúng ta trực tiếp bắt nguồn từ tội lỗi mình. Sự kiêu căng, ngạo mạn, căm phẫn, mơ tưởng tội ác, hiểm độc, tham lam... là cội nguồn của những nỗi đau con người, nhiều hơn tất cả những căn bệnh gây nên trên thể xác.

Những Lời của Đức Chúa Jêsus cho trần gian này thật rất tuyệt và lạ lùng, một sự thăm viếng từ trên cao. Đức Chúa Jêsus phán thật sâu sắc, không ai có thể thực hiện nó trọn vẹn cũng chẳng sao, và thật tốt khi chúng ta lắng nghe. Lời Ngài là cốt lõi của lẽ thật. Ngài không trình bày một quan điểm; Đức Chúa Jêsus chẳng bao giờ thốt ra các quan điểm. Ngài chẳng bao giờ suy đoán; Ngài đã biết, và Ngài hiện đang, cũng như sẽ biết. Lời Ngài chẳng phải những lời Sa-lô-môn đã nói, những lời về sự khôn ngoan hay kết quả của sự tìm kiếm trung kiên. Ngài phán về sự trọn lành của Đức Chúa Trời, và Lời Ngài tự nó đã là Chân Lý. Ngài là Đấng duy nhất có thể nói “phước” với trọn vẹn thẩm quyền, vì Ngài là Đấng đã được Chúc Phước, đến từ thế giới trên cao để ban phước cho con loài người. Và Lời Ngài luôn kèm theo những việc làm đầy năng quyền hơn bất cứ điều gì con người thực hiện được trên đất này. Chúng ta lắng nghe, điều đó là rất khôn ngoan.

Đức Chúa Jêsus rất thường dùng từ “nhu mì” trong những câu ngắn gọn, và đã không ít lần Ngài giải thích nó. Trong sách Ma-thi-ơ, Ngài phán với chúng ta về nó nhiều hơn và áp dụng nó vào đời sống chúng ta. “Hỡi những kẻ mệt mỏi và gánh nặng, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ. Ta có lòng nhu mì, khiêm nhường; nên hãy gánh lấy ách của ta, và học theo ta; thì linh hồn các ngươi sẽ được yên nghỉ. Vì ách ta dễ chịu, gánh ta nhẹ nhàng” (Ma-thi-ơ 11:28-30). Ở đây, chúng ta có hai thứ đối lập nhau, một gánh nặng và một sự yên nghỉ. Gánh nặng không có tính cục bộ, đặc biệt đối với những người nghe lần đầu tiên, bèn là cái mà cả chủng tộc loài người đã mang vác. Nó không bao hàm sự áp bức chính trị, nghèo khó hay công việc nặng nhọc. Nó sâu nhiệm hơn những điều đó nhiều. Người giàu, cũng như người nghèo đều cảm thấy nó, vì gánh nặng là một điều gì đó mà của cải vật chất cũng như sự nhàn rỗi không bao giờ có thể giúp giải thoát cho chúng ta.

Gánh nặng mà con người mang vác là một thứ rất nặng nề và đau đớn. Từ mà Đức Chúa Jêsus dùng có nghĩa là “một gánh nặng được mang hay vác rất cực nhọc đến mức kiệt sức.” Yên nghỉ đơn giản là thoát khỏi gánh nặng đó. Nó chẳng phải là một việc để chúng ta làm; nó là một cái gì đó đến khi chúng ta ngừng làm. Sự nhu mì của Chúa chính là sự yên nghỉ.
Chúng ta hãy xem xét gánh nặng của mình. Tất cả chúng là một cái gì đó ở bên trong. Nó tấn công tấm lòng và tâm trí, đụng chạm đến thân thể từ bên trong. Trước tiên, có một gánh nặng của sự kiêu ngạo. Nô lệ cho sự ích kỷ thì thật là nặng nề. Nghĩ về chính bạn xem, có bao giờ nỗi buồn của bạn lại không dâng lên khi một ai đó nói năng cách khinh rẻ với bạn không? Bao lâu bạn đặt chính mình lên, giống như một thần tượng nhỏ mà bạn phải trung thành, sẽ có những người sẵn lòng lăng mạ thần tượng của bạn. Thế thì khi đó, làm thế nào bạn có được sự bình an trong lòng? Những cố gắng mãnh liệt của con tim để tự bảo vệ mình khỏi sự coi khinh, để bảo bọc chút danh giá dễ vỡ của nó khỏi những quan điểm xấu của bạn bè và kẻ thù sẽ chẳng bao giờ làm cho tâm trí được yên nghỉ cả. Tiếp tục cuộc chiến này qua nhiều năm trường, rồi thì gánh nặng sẽ trở nên bất kham, không thể chịu đựng nổi. Thế nhưng con cái của thế gian này đang không ngừng mang vác gánh nặng đó, thách thức mọi lời nói chống lại họ, nép mình xuống dưới lời phê bình, đau khổ trước sự khinh miệt võ đoán, trở mình trằn trọc và mất ngủ vì cớ người khác được yêu thích hơn họ.

Một gánh nặng như thế thật chẳng đáng mang chút nào cả. Đức Chúa Jêsus kêu gọi chúng ta đến với sự yên nghỉ của Ngài, và sự nhu mì chính là phương cách của Ngài. Một người nhu mì không quan tâm đến những người to tát, vĩ đại hơn mình, vì từ lâu anh ta đã quyết định rằng sự tôn trọng của thế giới này chẳng đáng để anh ta nỗ lực đạt được. Anh ta hướng mình vào chiều kích hài hước, tốt bụng, và học cách nói rằng, “Ồ, thế là anh đã bị bỏ qua phải không? Người ta đã đặt ai đó lên trước anh à? Họ cũng đồn rằng anh chỉ là một tên nhãi nhỏ nhoi ư? Và bây giờ anh cảm thấy đau đớn vì thế giới này đang ầm ĩ về mọi điều anh đã nói về chính anh chăng? Chỉ mới hôm qua anh thưa với Chúa rằng anh chẳng ra chi cả, chỉ là một con mọt bé tẻo teo. Tính cứng rắn của anh đâu rồi? Thôi nào, hãy hạ mình xuống, và đừng thèm bận tâm đến những điều người ta nghĩ nữa.”

Một người nhu mì không phải là con chuột bị chi phối bởi cảm giác về địa vị thấp hèn của mình. Nhưng trong đời sống tinh thần của anh ta, anh ta dũng cảm như một con sư tử, và mạnh mẽ như Sam-sôn; song, anh đã không còn bị lừa về chính mình nữa. Anh tiếp nhận sự đánh giá của Đức Chúa Trời về chính đời sống anh. Anh biết rằng anh yếu đuối và vô dụng như những gì Đức Chúa Trời đã tuyên bố về anh, nhưng nghịch lý thay, anh ta biết rằng cùng lúc đó, trong cái nhìn của Đức Chúa Trời, anh quan trọng hơn cả các thiên thần. Trong chính mình anh, chẳng là gì cả; song trong Đức Chúa Trời, là tất cả. Đó chính là phương châm của anh. Anh biết rõ là thế giới sẽ không bao giờ nhìn anh như Đức Chúa Trời nhìn anh, và anh ta chẳng thèm bận tâm đến. Anh yên nghỉ cách thư thái, hoàn toàn thỏa lòng để cho Đức Chúa Trời đặt để nơi anh những giá trị của chính Ngài. Anh ta sẽ kiên nhẫn đợi chờ cái ngày mà mọi sự đều sẽ được định giá, và giá trị thật của nó sẽ là chính nó. Rồi thì người công bình sẽ sáng chói vinh quang trong Vương Quốc của Cha họ. Anh ta sẵn sàng chờ đợi ngày đó.

Trong khi ấy, anh đã có được một nơi chốn để linh hồn được yên nghỉ. Khi bước đi trong sự nhu mì, anh ta sẽ vui vẻ để cho Đức Chúa Trời che chở anh. Cuộc tranh chiến quá khứ để tự bảo vệ mình không còn nữa. Anh đã tìm và gặp được sự bình an mà lòng nhu mì mang đến.
Kế đó, anh ta cũng sẽ được giải thoát khỏi gánh nặng của sự gian trá. Tôi không có ý nói sự đạo đức giả ở đây, mà là một dục vọng thông thường của con người để đặt những điều tốt đẹp nhất ra trước, và che giấu thế giới sự nghèo nàn thật sự bên trong. Tội lỗi đã thực hiện nhiều cú lừa trên chúng ta, và một trong số đó là cảm giác xấu hổ sai lầm đang ngấm ngầm ăn sâu vào mỗi chúng ta. Thật hiếm có một người nam hay người nữ nào dám sống thật với bản chất và những thứ mình có (hay không có) mà không bị pha trộn bởi cảm giác đó (cảm giác xấu hổ). Nỗi lo sợ bị phát hiện giày vò giống như loài gặm nhấm đang ở trong lòng họ. Một con người có văn hóa bị ám ảnh bởi nỗi lo sợ rằng một ngày nào đó, anh ta sẽ phải đụng độ với một người có văn hóa cao hơn mình. Một con người tri thức lo sợ phải gặp người có nhiều tri thức hơn mình. Một con người giàu có toát mồ hôi khi lo sợ rằng trang phục, xe cộ, nhà cửa của anh ta một lúc nào đó sẽ trở nên rẻ mạt khi đem so với một người khác giàu hơn mình. Cái gọi là “xã hội” bị điều khiển không bởi một động cơ nào khác hơn động cơ này, và tầng lớp những người nghèo hơn chỉ tốt hơn một tí.

Chúng ta đừng cười. Những gánh nặng này là thật, và dần dần, chúng giết chết những nạn nhân của phương cách sống tội lỗi, khác thường đó. Và cái tâm lý loại này, vốn được khởi tạo trong nhiều năm, đã biến sự nhu mì thật thành một điều vô thực, giống như một giấc mơ, xa vời như một ngôi sao bé nhỏ. Với tất cả những nạn nhân của căn bệnh đang gặm nhấm này, Đức Chúa Jêsus phán, “Các ngươi phải nên như đứa trẻ.” Vì cớ trẻ nhỏ không hề so sánh; chúng nhận được niềm vui trực tiếp từ những gì chúng có mà không so đo với một thứ nào khác, hay một ai khác. Chỉ khi chúng lớn hơn, và tội lỗi bắt đầu khuấy động trong lòng chúng khiến cho sự ghen tị và đố kỵ xuất hiện. Rồi thì chúng không thể vui mừng với những gì chúng có nếu một ai đó có những cái lớn hơn hay tốt hơn. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, gánh nặng khó chịu đó đã đổ ập xuống linh hồn thơ bé của chúng, và nó sẽ chẳng bao giờ lìa khỏi đó cho đến khi Đức Chúa Jêsus giải cứu chúng.

Một cội nguồn khác của gánh nặng là tính chất giả tạo. Tôi chắc rằng hầu hết mọi người sống trong nỗi sợ hãi thầm kín rằng một ngày nào đó, họ bất cẩn và nhân cơ hội đó, một kẻ thù hay một người bạn thân sẽ hé nhìn vào tâm hồn khốn khổ, trống rỗng của họ. Thế là họ chẳng bao giờ ngơi nghỉ. Những người thông minh thì rất căng thẳng và luôn cảnh giác với nỗi lo sợ rằng họ sẽ bị mắc bẫy khi nói một điều gì đó tầm thường hay ngớ ngẩn. Những con người đi lại nhiều thì lo sợ rằng họ có thể sẽ phải đụng độ với một Marco Polo, người có thể mô tả một nơi xa xôi nào đó mà họ chưa từng đặt chân đến.

Tình trạng không bình thường này là một phần di sản tệ hại của tội lỗi, nhưng trong thời đại này, nó đã trở nên trầm trọng hơn do lối sống của cuộc đời chúng ta. Quảng cáo phần lớn dựa trên thói quen giả tạo này. Các “cách cư xử” được đề nghị trong lĩnh vực này hay lĩnh vực kia của việc học hành của con người lôi cuốn mạnh mẽ dục vọng con người muốn được “sáng chói” tại một “buổi tiệc” (chốn đông người). Sách vở được bán ra, quần áo và mỹ phẩm được tiêu thụ rất nhiều để liên tục đóng kịch trên dục vọng này, tức là xuất hiện không phải với vẻ ngoài cố hữu của chúng ta. Sự giả tạo là một tai họa sẽ cướp đi giây phút chúng ta quỳ nơi chân Chúa Jêsus và phủ phục dưới sự nhu mì của Ngài. Rồi thì chúng ta sẽ không bận tâm đến những điều người khác nghĩ về mình miễn là Đức Chúa Trời hài lòng. Kế đó, những gì chúng ta là sẽ là mọi sự; chúng ta xuất hiện với dáng vẻ gì sẽ ở chỗ của nó, rất xa bên dưới mức độ của sự yêu thích dành cho chúng ta. Ngoài tội lỗi, chúng ta chẳng có gì đáng phải xấu hổ cả. Chỉ vì một dục vọng muốn được rạng rỡ mà chúng ta lại sẵn sàng xuất hiện với hình hài và bản chất không thực tồn tại nơi chúng ta sao?

Trái tim của thế giới đang tan vỡ vì cớ gánh nặng của sự kiêu ngạo và gian trá này. Không có con đường giải thoát nào cho gánh nặng của chúng ta ngoại trừ sự nhu mì của Đấng Christ. Sự lý giải tốt và sắc xảo có thể giúp không đáng kể, nhưng thói xấu này mạnh đến độ nếu chúng ta đẩy nó xuống một nơi nào đó, nó sẽ trồi lên ở một nơi khác. Đức Chúa Jêsus phán với mọi con người ở khắp mọi nơi rằng, “Hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các ngươi được yên nghỉ.” Sự yên nghỉ mà Ngài mời gọi là sự yên nghỉ của lòng nhu mì, một sự giải thoát chứa chan phước hạnh sẽ đến khi chúng ta chấp nhận chính mình ở điều mà mình là như vậy, và chấm dứt trò giả tạo. Đầu tiên phải có một chút can đảm, nhưng sự thương xót cần thiết sẽ đến khi chúng ta học biết rằng chúng ta đang chia sẻ gánh nặng mới và dễ dàng này với chính Con Một của Đức Chúa Trời, vốn rất mạnh mẽ, và oai nghi. Ngài gọi nó là “gánh của ta”, và Ngài bước đi ở đầu bên kia, còn chúng ta thì ở đầu bên này.

Lạy Chúa, hãy khiến con nên như đứa trẻ. Hãy giải cứu con khỏi tham muốn tranh cạnh với người khác về uy thế, hay địa vị. Con sẽ trở nên đơn giản và chất phát như một đứa trẻ. Hãy giải cứu con khỏi thái độ màu mè và giả tạo. Hãy tha thứ cho con vì con đã chỉ nghĩ đến mình. Hãy giúp con quên chính mình đi và tìm thấy sự bình an thật khi con chăm xem Ngài. Nguyện xin Cha hãy đáp lại lời cầu xin của con. Con hạ mình xuống trước Ngài đây. Hãy đặt lên con gánh của Ngài về sự tự quên mình để qua đó mà con tìm thấy sự yên nghỉ thánh, sự bình an thật nơi Cha, Cha ôi! A-men.

  Không Có Gì Thay Thế Cho Thần Học



Tri thức quan trọng nhất và hữu ích nhất mà bất cứ ai trong chúng ta cũng có thể có được đó là tri thức về thần học.

Môn thần học có lẽ nhận được sự lưu ý ít hơn bất cứ những môn học nào khác, tại vì nó chỉ cho chúng ta thấy rằng con người còn đang giấu mình trong những bụi cây trong vườn Ê-đen sau khi đã phạm tội và lìa khỏi sự hiện diện của Ðức Chúa Trời. Nó tạo sự cảm biết sâu sắc bực bội, khó chịu khi con người phải đương đầu trước vấn đề "mối tương giao mật thiết với Ngài". Học thần học chỉ ra một khoảng cách sâu thẳm giữa Ðức Chúa Trời và loài người, vì thế cho nên loài người chỉ có thể sống bình an với chính họ bằng cách "quên rằng mình vẫn chưa hòa thuận lại với Ðức Chúa Trời".

Nếu không có Ðức Chúa Trời, thì mọi sự sẽ hoàn toàn khác hẳn đối với chúng ta. Chúng ta sẽ không mang một gánh nặng trong tâm trí nếu không có ai để chúng ta cuối cùng phải giải thích hành động của mình. Chúng ta chỉ cần phải sống trong luật lệ, không phải làm những nhiệm vụ quá khó khăn đối với tổ quốc, và sẽ không có gì phải sợ cả.

Nhưng

Ðức Chúa Trời đã dựng nên trái đất và đặt để con người quản lý nó cùng với ý thức đạo đức, thì bổn phận nặng nề của chúng ta là phải học biết ý muốn Ðức Chúa Trời và làm theo ý muốn của Ngài.

Ðối với tôi, thuyết hiện sinh phủ nhận sự tồn tại của Ðức Chúa Trời và rồi tiếp tục dùng ngôn ngữ của thuyết hữu thần để thuyết phục con người sống đúng đắn là một điều hết sức mâu thuẫn. Một tác giả người Pháp, ông Jean-Paul Sartre, chẳng hạn, đã khẳng định cách thẳng thắn rằng ông đại diện cho thuyết hiện sinh vô thần. Ông nói: "Nếu Chúa không tồn tại thì chúng ta không tìm thấy những giá trị hay mạng lệnh để hướng tới, cái có thể hợp pháp hóa hành vi chúng ta. Vì thế trong thực tại sáng chói của những giá trị, chúng ta không có lời bào chữa sau lưng mình, cũng không có sự biện hộ ở phía trước chúng ta. Chúng ta hoàn toàn cô đơn, và không hề có lời bào chữa nào." Nhưng trong đoạn tiếp theo ông lại khẳng định, "Con người chịu trách nhiệm về hành động của chính mình, và một kẻ hèn nhát cũng phải có trách nhiệm về sự hèn nhát của mình."

Ðối với tôi, dường như những lý lẽ đó đã thừa nhận lẽ thật về những điều mà nó cố gắng tìm cách để phủ nhận. Nếu không có Ðức Chúa Trời, thì không thể có những từ như "trách nhiệm". Không một phạm nhân nào mà cần phải sợ một quan án vốn không tồn tại; người đó cũng không cần lo lắng về việc phạm luật vốn chưa được thông qua. Chính sự nhận biết rằng luật lệ và quan án là thực sự tồn tại đã dóng lên trong lòng những kẻ phạm luật một hồi chuông lo sợ, vì biết rằng có một ai đó mà chính mình phải chịu trách nhiệm; nếu ngược lại, thì quan niệm về tinh thần trách nhiệm sẽ không thể có một ý nghĩa nào.

Ðiều này chính xác là vì Ðức Chúa Trời thực hữu, vì con người được dựng nên theo hình ảnh Ngài và chịu trách nhiệm trước mặt Ngài, và đó là thần học tối quan trọng. Chỉ có sự khải thị của Ðức Chúa Trời mới có câu trả lời cho những vấn nạn không thể trả lời được về Ðức Chúa Trời và số phận con người. Nếu chúng ta để cho những câu trả lời đầy năng quyền này bị lãng quên, và đi tìm kiếm những lời giải đáp ngoài sự mặc khải của Ðức Chúa Trời cho loài người qua Kinh thánh, thì đối với tôi, đó là điều dường như chẳng khác gì hơn là sự điên rồ.

Không có một tài xế nào bào chữa được cho hành động điên rồ khi bị lạc đường vì không tham khảo bản đồ, nhưng lại tìm đường bằng cách quan sát đường bay của những con ong rừng, xem xét sự chuyển động của những tinh tú, hoặc là dùng xí ngầu để tìm hướng đi. Nếu không có bản đồ, một người có thể định hướng bằng các ngôi sao; nhưng đối với một du khách muốn tìm đường về nhà, thì các ngôi sao quả là vật thay thế điên rồ nhất cho bản đồ.

Không có bản đồ nhưng người Hy Lạp đã làm những vật định hướng rất đáng khâm phục; người Hê-bơ-rơ thì có bản đồ và vì thế họ không cần đến triết lý con người. Những đoạn có tính chất hùng biện của Ê-sai, và những bài thánh vịnh đầy cảm hứng của Ða-vít đã chứa đựng sự giúp đỡ thực tế cho loài người hơn là tất cả những sản phẩm trí tuệ ưu tú nhất của Hy Lạp trong suốt những thế kỷ đã qua.

Sự thờ ơ hiện tại của con người văn minh đối với Lời Kinh Thánh được hà hơi là một điều đáng xấu hổ, và là một sự xúc phạm; vì chính những phân đoạn Kinh Thánh đó cho họ biết tất cả những gì họ muốn biết hay nên biết về Ðức Chúa Trời, linh hồn mình và số phận con người. Thật mỉa mai một điều là con người đã và sẽ tiêu phí thời gian lẫn tiền bạc trong nỗ lực khám phá những bí mật quá khứ của mình khi mà tương lai họ mới thực sự là vấn đề cần quan tâm.

Không một người nào cần chịu trách nhiệm về tổ tiên của mình; và cái quá khứ duy nhất họ phải chịu trách nhiệm là cái quá khứ ngắn ngủi mà họ đã sống ở trên trần gian này. Học biết làm thế nào tôi có thể thoát khỏi tội lỗi tôi đã phạm trong những ngày qua, làm thế nào tôi có thể sống tự do khỏi tội lỗi và cuối cùng bước vào sự hiện diện phước hạnh của Ðức Chúa Trời trong một ngày mai vui vẻ - Những điều đó đối với tôi quan trọng hơn bất cứ gì đã khám phá được từ những nhà nhân chủng học. Thật là một sở thích sai lầm kỳ dị khi tôi thấy loài người cứ chúi mũi vào bụi đất mà tìm kiếm quá khứ của họ trong khi họ được trang bị để nhìn lên sự vinh hiển tột cùng của Ðức Chúa Trời.

Bất cứ điều gì kéo tôi ra khỏi Kinh Thánh thì nó là kẻ thù của tôi, mặc dù nó có vẻ vô hại ra sao.

Bất cứ điều gì lôi kéo sự chú ý của tôi khi tôi suy gẫm về Ðức Chúa Trời và những điều thuộc cõi vĩnh hằng đều làm thương tổn linh hồn tôi. Nếu để sự lo âu về cuộc sống thế chỗ cho Lời Chúa trong tâm trí tôi, thì tôi sẽ phải mất mát những điều mà lẽ ra tôi đã sở hữu. Nếu tôi chấp nhận bất cứ thứ gì khác thay vì Kinh Thánh thì tôi đã bị lừa, và đã bị cướp đoạt hết những điều tốt đẹp mà chỉ còn lại sự nhầm lẫn đời đời của tôi mà thôi.

Bí mật của sự sống có tính chất thần học và chìa khóa vào thiên đàng cũng vậy. Chúng ta học thì khó khăn, quên lãng lại rất dễ dàng và phải chịu nhiều điều rối trí. Vì thế chúng ta nên đặt để lòng mình vào việc nghiên cứu thần học. Chúng ta nên giảng về nó trên tòa giảng, hát về nó trong các bài thánh ca, dạy dỗ nó cho con cháu chúng ta và biến nó thành đề tài chính của những cuộc nói chuyện khi chúng ta gặp các bạn Cơ Ðốc của mình.

 A.W.Tozer