Thứ Sáu, 29 tháng 7, 2011

Tổng Quan Xứ Thánh



Chỉ nhìn bằng đôi mắt tò mò của những du khách lần đầu tiên đến đây, xứ thánh là một vùng đất kỳ lạ với những nét tương phản ngoạn mục. Chính Chúa gọi đây là “đất mà ta đã tìm sẵn cho chúng nó, tức là đất đượm sữa và mật ong, vinh hiển nhất trong các đất ” (Exech  20:6). Ở chỗ khác nó được gọi là “xứ tốt tươi ” (Phuc 8:7), “đất vinh hiển ” (Dan 8:9, 11:16), “đất vui thích ” (Mal 3:12), “đất tốt đẹp ” (Thi  106:24, cf. Ose 9:13), và “một đất tốt, cơ nghiệp quí giá của cơ binh các nước ” (Gie  3:19). Nén chặt vào một lãnh thổ rộng không quá 50 dặm (80 km) và dài không quá 150 dặm (240 km) là những đỉnh núi phủ tuyết quanh năm và một thung lũng (depression) sâu đến nỗi nó có đủ những đặc trưng của vùng đất thấp nhất trên địa cầu. Phía tây của vùng đất nầy là vùng duyên hải Địa Trung Hải, và phía đông là vùng sa mạc A-ra-bi-a. Những thung lũng phì nhiêu của xứ Ga-li-lê tương phản với vùng núi non lởm chởm tại Negev.
Trong các chương 1-3 chúng ta sẽ xem xét vùng đất của Kinh Thánh trước hết như một toàn thể và sau đó sẽ xem xét từng phần, từ tây sang đông và từ nam lên bắc. Những miền đất khác nhau nầy có thể được quan sát từ góc độ các vai trò riêng biệt mà chúng đảm nhiệm trong lịch sử cứu chuộc.
Toàn cảnh xứ thánh: Vùng đất như một toàn thể
“Đất đai” như một yếu tố có ý nghĩa thần học bắt đầu từ “Địa đàng” (Paradise). Vườn Ê-đen nguyên thuỷ thể hiện sự hoàn hảo của ơn phước mà Đức Chúa Trời ban cho con người vừa được sáng tạo làm nơi cư ngụ. “Mảnh đất” nguyên thuỷ nầy cung ứng dư dật cho việc duy trì sự sống và là không gian cư trú thoải mái. Tại “vùng đất” được gọi là “địa đàng” nầy con người có thể phục vụ Đức Chúa Trời và tìm thấy mục đích đầy ý nghĩa cho cuộc đời.

Do việc ly khai khỏi Đức Chúa Trời gây ra bởi sự cố ý phản loạn của họ, người nam và người nữ đầu tiên chợt thấy chính mình bị đuổi ra khỏi vùng đất phước hạnh nầy. Khi con người sa ngã lưu lạc trên đất, sự xa cách của con người khỏi thế giới quanh mình như được tăng cường mọi chỗ. Môi trường của con người đã trở thành kẻ thù của chính mình. Chông gai và tật lê mọc dày đặc khắp nơi.
Nhưng một lời hứa thiên thượng đem lại cho con người hi vọng. Có một “vùng đất”, vùng đất đượm sữa và mật. Một nơi nào đó phía trước mà con người có thể tìm thấy vùng đất ấy, vì Đức Chúa Trời đã dự định cứu chuộc con người khỏi lời rủa sả, cho con người được trở lại vùng đất phước hạnh mà mình đã đánh mất.
Tia hi vọng nầy được diễn đạt cụ thể trong lời hứa đối với Áp-ra-ham. Bằng một hành động tối cao của đức tin, vị Tổ phụ từ bỏ vùng đất của cha ông mình và trở nên một lữ khách lang thang, luôn luôn di chuyển về phía “vùng đất” mà Đức Chúa Trời đã hứa.


Cảnh đời kiều ngụ của ông là một bức tranh hoàn hảo về hành trình đến địa đàng mà những người được cứu chuộc phải trải qua. Con người phải rời bỏ môi trường quen thuộc của chính mình và ra đi với đức tin vào lời hứa cứu chuộc của Đức Chúa Trời, hướng về một vùng đất đã được định sẵn trên thế giới.
Áp-ra-ham đến được vùng đất ấy nhưng ông chưa bao giờ sở hữu nó. Ông tận mắt thấy nơi chốn của sự khôi phục đã được hứa hẹn, nhưng ông chết và chẳng có gì hơn ngoài một khu nghĩa địa gia đình (Sang 23:17-20). Kinh nghiệm cả một đời người buộc ông phải nhìn xa hơn hoàn cảnh hiện sống tạm thời để hướng về “một thành có nền vững chắc, mà Đức Chúa Trời đã xây cất và sáng lập ”(Heb. 11:10).
Đối với Môi-se và những người thuộc thế hệ ông, Đức Chúa Trời làm mới lại lời hứa khôi phục vùng đất. Ở phía bên kia sa mạc, một vùng đất đượm sữa và mật đang chờ đợi họ. Nhưng Môi-se và những người đồng thời lang thang trong sa mạc Si-na-i suốt bốn mươi năm, và Môi-se đã chết trong đức tin, không nhận lãnh được lời đã hứa (11:39).
Dưới quyền thống lĩnh của Giô-suê dân chúng chinh phục vùng đất, nhận lãnh được một kiểu mẫu giới hạn của địa đàng mà Đức Chúa Trời đã hứa. Nhưng việc lãnh thổ nầy không phải là địa đàng tối hậu đã nhanh chóng trở nên hiển nhiên. Những người Ca-na-an chưa bị đánh bại cứ làm những “con ong lỗ” để nhắc nhở Y-sơ-ra-ên về tình trạng chưa hoàn hảo của chính nó, cũng như những giới hạn của chính vùng đất; vì làm sao có thể thực hiện được việc quay về vùng đất địa đàng với bản lĩnh đầy đủ mà dân chúng lại thiếu sự thánh khiết trọn vẹn được chứ? Tuy qua bài học trực quan rộng lớn đó tức là vùng đất của người Ca-na-an, mỗi thế hệ kế tiếp nhau học biết cách sống trong hi vọng, họ vẫn chưa sở hữu được lời hứa theo ý nghĩa đầy đủ nhất của nó.
Hình ảnh về tình trạng đơm hoa kết trái tương xứng với địa đàng không đạt đến hiện thực đầy trọn mãi cho đến kỷ nguyên quân chủ thống nhất của Y-sơ-ra-ên. Vị vua được xức dầu cai trị trên toàn vùng đất, và dân cư của vua vui hưởng những phước hạnh của sự thịnh vượng. Cuối cùng, dưới triều Sa-lô-môn, Y-sơ-ra-ên sở hữu vùng đất từ Ơ-phơ-rát đến biên giới Ai Cập, như Đức Chúa Trời đã hứa từ ban đầu với Áp-ra-ham (Sang 15:18, Xuat 23:31, IVua  4:21, 8:65, IISu  9:26). Cảnh thái bình và thịnh vượng dưới thời trị vì của Sa-lô-môn được mô tả như một tình trạng mà trong đó mỗi người ngồi “dưới cây nho và cây vả mình ” (IVua 1V 4:25), một bức tranh hoà hợp lý tưởng giữa vòng con người, Đức Chúa Trời của con người, và môi trường của con người. Các nhà tiên tri mở rộng chính hình ảnh địa đàng nầy thành một tương lai xa, nói đến ngày mà mọi người đều ngồi hưởng cảnh thanh bình dưới cây nho và cây vả mình (Mi 4:4, Xa 3:10).
Nhưng nền quân chủ thống nhất không phải là một tình trạng hoàn hảo, và nó không thể kéo dài mãi mãi. Sau thời Sa-lô-môn, dòng dõi Đa-vít, dự báo nền trị vì của “Đấng Mê-si-a” của Y-sơ-ra-ên, chỉ còn tiếp tục ở vương quốc Giu-đa. Dù vậy, nó kéo dài được bốn trăm năm, tỏ ra là một trong những đế chế lâu bền nhất trong lịch sử nhân loại. Nhưng vì con dân Chúa cứ ghì mài trong tội lỗi, và vì giao ước cũ có tính chất tiên báo về phước hạnh tương lai, bức tranh về một địa đàng được khôi phục, rốt lại cũng đã đến hồi kết thúc.

Đất đai hoang tàn, dân cư bị lưu đày. Liên tục bất chấp luật pháp Đức Chúa Trời, họ đi đến chỗ đáng sợ là lo-ammi, nghĩa là “không- phải- dân- ta ” (Ose 1:9). Vùng đất phì nhiêu mang dáng dấp của một sa mạc, một nơi ở cho chó rừng, chim cú và bò cạp. Dân chúng bị kéo đi bằng xiềng đến địa bàn cổ xưa của tổ phụ mình, bị buộc phải quay lại với kỷ nguyên trước khi lời kêu gọi của Chúa đến với Áp-ra-ham. Địa đàng, ngay cả dưới hình thức hình bóng của giao ước cũ, cũng bị tước mất khỏi họ.
Tuy nhiên, ngược lại với một ấn tượng sai lầm phổ biến, lịch sử của giao ước cũ không chấm dứt với cuộc lưu đày. Con dân Đức Chúa Trời không bị bỏ lại bên ngoài vùng đất đó. Thay vào đó họ trở về với Đất Hứa trước khi bức màn phủ xuống phần cuối của kỷ nguyên giao ước cũ. Đối với họ việc quay về là một kiểu phục sinh từ cõi chết, làm mới lại sự sống họ đã mất. Khải tượng của Ê-xê-chi-ên về trũng xương khô sống lại dự báo sự khôi phục Đất Hứa, và cũng đem lại khải tượng về sự phục sinh từ cõi chết. Đức Chúa Trời sẽ thở hơi sự sống vào trong các xương cốt khô kia (Exech. 37:4-6). Những người bị tản lạc sẽ trở lại với sự sống. Họ sẽ trở về vùng đất đó, vì Chúa đã tuyên bố,
Hỡi dân Ta, nầy, Ta sẽ mở mồ mả các ngươi, làm cho các ngươi lại lên khỏi mồ mả, và Ta sẽ đem các ngươi về trong đất của Y-sơ-ra-ên: Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Đức Giê-hô-va, khi Ta đã mở mồ mả các ngươi, và làm cho các ngươi lại lên khỏi mồ mả: Ta sẽ đặt Thần Ta trong các ngươi, và các ngươi sẽ sống: Ta sẽ lại lập các ngươi trong đất riêng của các ngươi; rồi các ngươi sẽ biết rằng Ta, Đức Giê-hô-va, sau khi hứa lời ấy thì đã làm thành, Đức Giê-hô-va phán vậy : (37:12-14)
Phần bé nhỏ của “vùng đất” mà Y-sơ-ra-ên quay về để sở hữu sau chuyến lưu đày Ba-by-lôn là rất nhỏ nhoi so với phần lãnh thổ mở rộng dưới thời Sa-lô-môn năm trăm năm trước. Chưa đầy năm mươi ngàn người quay về để dự phần trong sự phục hồi “vinh hiển” nầy, một con số rất nhỏ so với cả triệu người hoặc hơn đã cùng Môi-se ra khỏi Ai Cập. Những người già cả hơn là những người có thể nhớ lại sự vinh hiển của đền thờ Sa-lô-môn bật khóc khi họ thấy nền móng khiêm tốn của đền thờ được khôi phục (Exora 3:2). Đây không thể là địa đàng được!
Không, không phải đâu.
Nhưng chuyến hồi hương về lại “vùng đất” và việc tái thiết đền thờ chỉ ra con đường đi. Những sự kiện nầy không chỉ miêu tả việc hồi hương mà còn là sự hồi sinh, sự phục sinh từ cõi chết, tiên báo sự khôi phục hoàn toàn con dân của Đức Chúa Trời.
Năm trăm năm trước khi Đấng Christ đến, các tiên tri của thời kỳ khôi phục nầy đã tiên báo những ơn phước đến trên vùng đất nầy. Giê-ru-sa-lem sẽ là một thành phố không có tường thành, dù vậy một bức tường lửa sẽ bao quanh nó (Xa 2:4-5). Vinh hiển của đền thờ bé nhỏ nầy sẽ lớn hơn kiến trúc đền thờ thời Sa-lô-môn, và sự giàu có của mọi quốc gia sẽ chảy về đó (Aghe 2:9).
Tất cả đều là ngôn ngữ biểu tượng (hyperbolic) - vậy thì điều đó có ý nghĩa gì?
Điều đó có nghĩa là Đức Chúa Trời có một điều gì đó tốt hơn. Những hoàn cảnh tốt hơn cái tốt nhất có thể tưởng tượng ra được dưới những giới hạn hiện tại của vũ trụ sẽ đặc trưng cho những phước hạnh của tương lai. Lời hứa về vùng đất sẽ được ứng nghiệm không bởi điều gì kém hơn một địa đàng được khôi phục. Như Ê-sai nói tiên tri trước đó, chó sói sẽ nằm chung với cừu con, và một đứa trẻ sẽ dẫn chúng đi (Esai 11:6). Tội lỗi và sự sầu khổ sẽ không còn cai trị, và chông gai cũng không lan tràn mặt đất nữa.
Khi Đấng Christ thực sự đến, góc nhìn của Kinh Thánh về “vùng đất” đã trải qua những thay đổi triệt để. Quan sát cách thức những nhà lãnh đạo Do Thái và Hê-rốt đối xử với Giăng Báp-tit, Đức Chúa Giê-xu có chiến lược mở màn chức vụ của Ngài tại Ga-li-lê của Dân Ngoại, tại Ca-bê-na-um, “bên bờ biển” (Math 4:12-16, Esai 8:23-9:1). Chẳng phải vô cớ mà Chúa đã chỉ cho Áp-ra-ham thấy rằng ông phải định cư trên giải đất hẹp nối liền ba lục địa nầy. Trải qua hàng ngàn năm lữ khách từ Châu Phi đến Châu Âu, từ Châu Á đến Châu Phi đều đi dọc theo via maris , “con đường bên mé biển”. Họ đi ngang qua ngay tại địa bàn Ca-bê-na-um, và họ tiếp tục đi qua đó trong thời Đức Chúa Giê-xu. Qua việc đăng quang chức vụ công khai của Ngài tại Ga-li-lê của Dân Ngoại dọc theo con đường thương mại quốc tế chính yếu, Đức Chúa Giê-xu đã đưa ra một tuyên ngôn. Vùng đất nầy sẽ đóng vai trò một bàn đạp để đến mọi quốc gia. Vương quốc của Đức Chúa Trời là một lãnh thổ vượt xa hẳn vùng biên giới cổ xưa của Y-sơ-ra-ên. Như Phao-lô đã nhận định một cách sắc bén, lời hứa của Áp-ra-ham từ góc nhìn của giao ước mới có nghĩa rằng ông sẽ là người thừa kế vũ trụ, “lấy thế gian làm cơ nghiệp” (Ro 4:13). Mọi quốc gia, mọi vùng đất, và mọi dân tộc sẽ kinh nghiệm những ơn phước của nền cai trị nhân từ nầy.
Những hàm ý cơ bản trong việc Đức Chúa Giê-xu định hướng chức vụ mình đến toàn thế giới chứ không giới hạn trong vùng đất Ca-na-an cần phải được cảm nhận đầy đủ. Bằng cách đặt góc nhìn nầy lên chức vụ mình, Đức Chúa Giê-xu đã mở đường để “bóng” của giao ước cũ được thay thế bằng “hình” của giao ước mới. Hình ảnh việc trở về một “vùng đất” đượm sữa và mật được tập trung trên một sự hồi sinh bao trùm toàn bộ trật tự sáng tạo của Đức Chúa Trời. Không chỉ xứ Ca-na-an được hưởng lợi ích trong việc thiết lập vương quốc của Đấng Mê-si-a, mà toàn thế giới sẽ vui hưởng sự đổi mới do tính chất tươi mới của sự sống nầy mang lại.

Vùng đất từ Tây sang Đông
Khuôn mẫu thời tiết phổ biến của vùng đất Trung Đông nầy chạy từ tây sang đông.

Bắt đầu trên Địa Trung Hải, gió, mây, và mưa trước hết băng ngang qua vùng đồng bằng duyên hải Phi-li-tin. Rồi chúng hạ thấp xuống để chạy qua những vùng đồi tròn trịa của Shephelah, [2]
: Shephelah từ Hebrew có nghĩa là vùng chân đồi, để chỉ phần thung lũng dọc phía Tây, vùng canh tác chính của Palestine, nằm giữa vùng đồng bằng duyên hải Palestine và các dãy núi trung tâm:
và vùng núi non Giu-đê thuộc phần giữa của vùng đất nầy. Tiếp theo là kẻ nứt sâu của thung lũng Giô-đanh, và cuối cùng là vùng cao nguyên bên kia sông Giô-đanh của xứ Ê-đôm và Mô-áp cổ đại. Một lần nữa, tính chất chật chội của vùng lãnh thổ nầy cần được ghi nhớ. Băng ngang vùng đất nầy từ tây sang đông không đòi hỏi một hành trình dài tương tự một chuyến đi xuyên lục địa từ Pháp sang Nga. Vành đai nầy, vùng đất có ý nghĩa nhất trong lịch sử thế giới, có chiều ngang không quá 80 dặm (128 km) khi du khách đi từ bờ biển Địa Trung Hải xuyên qua Giê-ru-sa-lem đến vùng sa mạc phía bên kia sông Giô-đanh.

Vùng bờ biển Địa Trung Hải Những vùng bờ biển và hải đảo xa xôi của Địa Trung Hải đối với người dân Palestine là “những phần tận cùng của thế giới”. Vùng biển lớn nầy có tên gọi như thế do nó có vị trí nằm “chính giữa các vùng đất”, và những lãnh thổ nầy nằm ở rìa ngoài của thế giới theo sự hiểu biết của các dân tộc thời Kinh Thánh.
Vì thế khải tượng tiên tri về một sự bành trướng toàn cầu đức tin vào một Đức Chúa Trời hằng sống chân thật và Đấng Cứu Chuộc một nhân loại tội lỗi được mô tả như là một hành động vươn đến những hải đảo xa xôi (Es 42:4). Khi Giô-na quyết định chạy trốn đến Ta-rê-si, ông nhắm vào bán đảo Iberique (Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ngày nay), là giới hạn bên ngoài của thế giới theo sự hiểu biết của ông. Thật trớ trêu, khi nỗ lực ngăn chặn sứ điệp ăn năn và đức tin đến với dân Ni-ni-ve ngoại đạo nhằm bảo vệ vị trí được ưu đãi của Y-sơ-ra-ên, Giô-na trở thành công cụ của Đức Chúa Trời để truyền bá tin tức tốt lành đến “phần cuối cùng của đất” qua việc cải đạo trên thuyền của các thuỷ thủ ngoại đạo khi họ tìm đường đến Ta-rê-si.
Sứ đồ Phao-lô là sứ giả được lựa chọn của Đức Chúa Trời cho các quốc gia đã quyết tâm đạt được cùng một mục tiêu như Giô-na (RoRm 1:1013, 15:23-24). Ông trông mong “đi ngang qua” thành phố thủ đô của thế giới. Nhưng ông không sợ làm tổn thương cảm xúc của người Rô-ma khi ông nói thẳng rằng mục tiêu của ông không phải là thành phố to lớn của họ, vì ông phải làm trọn mục đích của Đức Chúa Trời bằng cách đem Phúc Âm đến “đầu cùng trái đất.” Một lần nữa thật hiển nhiên là Đức Chúa Trời đã xác định mục đích rõ ràng khi Ngài cẩn thận chọn dải đất hẹp gọi là Ca-na-an nầy để làm cầu nối ba lục địa. Áp-ra-ham phải rời khỏi U-rơ xứ Canh-đê và đi đến vùng đất xa xôi nầy lâu lắm trước khi ông biết rằng nó giáp bờ Địa Trung Hải bởi vì Đức Chúa Trời dự định rằng dòng dõi của vị tổ phụ được lựa chọn nầy phải trung chuyển các ơn phước của sự cứu chuộc cho mọi quốc gia trên thế giới.

Đồng bằng Phi-li-tin và Sa-rôn
Đồng bằng duyên hải Phi-li-tin và Sa-rôn không có các cảng nước sâu tự nhiên để thiết lập vùng nầy thành một trung tâm thương mại thế giới. Những bãi biển cạn, đầy cát đặc trưng cho vùng bờ tây của Xứ Thánh chứ không phải là những vịnh (inlets) và hải cảng như ở Hi-lạp và Ý. Đây đó trong những thành phố như Ách-ca-lôn, Giốp-bê, Đô-rơ, và A-cô, cũng có những vùng nước đủ sâu cho tàu thuyền ra vào. Người Phê-ni-xi và các cư dân Ty-rơ ở phía bắc trở nên khéo léo trong việc buôn bán bằng đường thuỷ. Nhưng người Y-sơ-ra-ên không bao giờ nổi tiếng về những thành tựu hàng hải đáng giá. Sa-lô-môn thiết lập được thương mại hàng hải có ý nghĩa, nhưng hoạt động của ông chủ yếu tập trung vào cảng Ê-lát (Ê-xi-ôn Ghe-be), nằm trong vịnh Aqabah ngày nay. Thật sự có trường hợp vị vua tốt như Giô-sa-phát lại thiết lập một liên minh tồi tệ với vị vua gian ác A-cha-xia của Y-sơ-ra-ên. Hậu quả là có một vụ đắm tàu bi thảm dành cho những nỗ lực nhằm “chinh phục thế giới” bằng đường biển của Y-sơ-ra-ên (cf. IISu 2Sb 20:35-37). Đến một tầm mức lớn hơn, vùng dồng bằng duyên hải vẫn cứ là một lãnh thổ không chiếm hữu được trong lịch sử phát triển của Y-sơ-ra-ên, mặc dù tác gỉa Thi Thiên cứ đứng chiêm ngưỡng những người đi biển xuống tàu, chăm chú vào những điều kỳ diệu của vực sâu (Thi Tv 107:23-24).

Những ngọn đồi nhấp nhô Trong vòng 20 km của vùng duyên hải Phi-li-tin đi về hướng đông là đến những ngọn đồi nhấp nhô có tên gọi là Shephelah : Những ngọn đồi vui mắt nầy và các vùng trũng tạo thành những thung lũng rộng tự nhiên mở vào vùng nội địa. Do đó, phần lãnh thổ nầy luôn luôn có ý nghĩa quân sự với tư cách là tuyến phòng thủ đầu tiên cho Giê-ru-sa-lem và vùng phụ cận. Khi các đoàn quân di chuyển dọc theo vùng đồng bằng duyên hải từ Châu Âu và Châu Á hướng về phía Ai Cập và Châu Phi, họ thường đi vào những thung lũng nầy như là con đường dễ đi nhất đến thủ đô của vùng đất nầy. Vì thế Shephelah trở thành chiến trường khốc liệt giữa Y-sơ-ra-ên và các kẻ thù xâm lược. Tại một trong những thung lũng nầy, Sam-sôn lấy lại uy thế chống quân Phi-li-tin với xương hàm của một con lừa (Quan  14:1-15:20). Trong một thung lũng khác (Ê-la), cậu bé Đa-vít và tên khổng lồ Gô-li-át có trận đánh nổi tiếng trong khi quân đội hai bên đứng xem (ISa 17:1-58). Cũng trong một thung lũng khác tại vùng nầy, người A-sy-ri râu sậm tên là San-chê-rip đã bao vây tuyến phòng thủ cuối cùng của Y-sơ-ra-ên tại La-ki và sai sứ giả đến Giê-ru-sa-lem, đòi họ đầu hàng vô điều kiện (IIVua  18:17-26). Như là những con đường dẫn đến vùng trung tâm của xứ, vị trí chiến lược của những thung lũng nầy giải thích tầm quan trọng của món quà hồi môn Ghê-xe, một thành kiên cố trong vùng Shephelah, mà vua Ai Cập ban cho Sa-lô-môn (IVua  9:16). Bởi hành động nầy, vinh quang của vị vua được xức dầu của Y-sơ-ra-ên, đấng “mê-si-a” của họ, được nhìn thấy khi ông thực sự vô hiệu hoá mọi khả năng tấn công quân sự của cường quốc Ai Cập. Dù sự nhượng bộ nầy có bị che phủ bởi cuộc hôn nhân có động cơ chính trị giữa Sa-lô-môn với con gái Pha-ra-ôn, sự vinh quang của đế chế Y-sơ-ra-ên đang bành trướng đã trở nên hiển nhiên. Nếu không vị vua Ai Cập nầy chẳng bao giờ nghĩ đến việc thiết lập một hoà ước không thể phá vỡ với người hàng xóm trước đây chẳng có nghĩa lý gì ở phía bắc.

Vùng núi trung tâm Sau những ngọn đồi nhấp nhô của vùng Shephelah là vùng núi trung tâm của vùng đất. Cao lên nhanh chóng từ mực nước biển Địa Trung Hải đến một độ cao khoảng 2.400 bộ (730m) tại Giê-ru-sa-lem, vùng xương sống núi non nầy chạy từ nam đến bắc theo một khoảng cách độ 145 km. Rặng núi trung tâm nầy nối Hêp-rôn ở phía nam Giu-đa với các đỉnh núi Ga-ri-xim và Ê-banh tại Sa-ma-ri, và tiếp tục đến núi Ghinh-bô-a ở rìa phía nam của dồng bằng Gít-rê-ên tại Ga-li-lê. Chính trong những ngọn đồi nằm trái đường của lãnh thổ Giu-đê mà các sự kiện có ý nghĩa nhất của lịch sử thế giới đã diễn ra. Trong một không gian chật hẹp khoảng chừng 32 km2, công trình cứu chuộc của Đức Chúa Trời vốn định hình lịch sử thế giới đã khởi nguồn và trở thành những hiện thực được hoàn tất (consummate realizations). Những tế lễ đầu tiên của Áp-ra-ham khi ông đặt chân đến vùng đất nầy và tế lễ cuối cùng bằng chính Đức Chúa Giê-xu Christ diễn ra trong miền tương đối mờ nhạt nầy.

Chẳng phải Đức Chúa Trời của Kinh Thánh đã chọn nơi chốn đặc biệt nầy làm vũ đài cho sự kiện quan trọng nhất của lịch sử thế giới sao? Mọi con đường của thế giới không tự nhiên dẫn đến chốn thánh khiết nầy. Thật vậy, những con đường mòn được nhiều người đi lại của khu vực hoàn toàn bỏ qua lãnh thổ trung tâm nầy của vùng đất của Kinh Thánh. Đúng ra, con đường được gọi là “xa lộ tổ phụ” (patriarchal highway) uốn lượn dọc theo sườn núi chạy xuyên qua khu vực nầy. Nhưng những con đường quốc tế chính yếu chạy theo vùng dồng bằng duyên hải và sườn phía đông của vùng phía bên kia sông Giô-đanh. Để có mặt trong phần lãnh thổ nầy, trước hết người ta phải quyết tâm đi đến đó. Ngay cả ngày nay, Giê-ru-sa-lem cũng không thể khoe khoang về một sân bay quốc tế. Thành phố Tel Aviv ít nổi tiếng hơn phải phục vụ như người chủ nhà đầu tiên tiếp đón đám đông khách hành hương đến thăm vùng đất của Kinh Thánh.

Tại vùng đồi núi trung tâm nầy, Áp-ra-ham và Sa-ra nhận được lời khẳng định về những lời hứa liên quan đến đất đai của họ, dòng giống của họ, và định phận của họ là làm một ơn phước cho toàn thế giới (SaSt 12:6-7). Bước vào chính miền nầy, Giô-suê tổ chức khẳng định giao ước tại đúng chỗ mà Môi-se đã chỉ định trước đó theo mệnh lệnh Chúa truyền (Phuc 11:29-30, 27:12-13, Giosue 8:30-35). Cũng chính dọc theo rặng núi trung tâm nầy Đa-vít được xức dầu và bắt đầu cai trị tại miền cao nguyên Hếp-rôn (IISa  2:1-4). Trong miền nầy Sa-lô-môn xây dựng đền thờ tráng lệ cho Chúa, và tại chính địa bàn nầy Xô-rô-ba-bên giám sát việc khôi phục khiêm hạ của nó sau những tàn phá của cuộc lưu đày. Tại vùng đồi phía nam của Giu-đê, Trinh Nữ hạ sinh Con nhập thể của Đức Chúa Trời tại Bết-lê-hem; và tại vùng đồi núi gần Giê-ru-sa-lem, Ngài trở lại với đỉnh điểm của chức vụ Ngài trên đất. Đức Chúa Giê-xu không du hành đến A-thên, Rô-ma, hoặc Cai-rô để thi hành công tác hi sinh, cứu chuộc cuối cùng của Ngài. Thay vào đó Ngài trở lại trong phạm vi mười cây số của nơi Ngài đã được sinh ra. Tại chính trên những ngọn núi nầy và trên con đường về Em-ma-út gần đó, lần đầu tiên Ngài tỏ mình là Đấng Chiến Thắng trên kẻ thù cuối cùng của dân tộc Ngài. Cũng chính tại đây Ngài thăng thiên trong sự vinh hiển về với Cha, và từ vị trí được tôn cao trên thiên đàng Ngài đổ Đức Thánh Linh ban sự sống trên các môn đồ Ngài đang nhóm họp tại đây.
Không có nơi nào trên đất giống như chỗ nầy. Dồn nén trong một không gian đi bộ khoảng một ngày, những sự kiện trọng đại nhất trong công tác của Đức Chúa Trời trên thế giới đã diễn ra. Đây là nơi người ta có thể nghiên cứu cho đến khi họ cảm nhận được một điều gì đó về sự kỳ diệu trong công tác của Đức Chúa Trời trên thế giới nầy.
(còn tiếp)