Nhiều người đã có một nền giáo dục Cơ Đốc
giáo, như tôi đã có, có lẽ đã được dạy dỗ về Y-sơ-ra-ên và người Do Thái theo
cách tương tự. Các giáo viên trong trường học Cơ Đốc giáo, hay trường chủ nhật,
hoặc trong một lớp giáo lý, hoặc có thể ngay cả ở tại nhà mình sẽ nói, "Cựu
Ước, phần đầu tiên của Kinh thánh, đề cập đến Giao ước Cũ mà Đức Chúa Trời lập
với Y-sơ-ra-ên; kinh Tân Ước, phần thứ hai của Kinh thánh, đề cập đến Giao Ước
Mới của Đức Chúa Trời được lập ra với các Cơ-Đốc nhân, với Hội thánh. Dân tộc mới
mẻ của Đức Chúa Trời, là Hội thánh, được tạo thành từ những ai tin Chúa Jêsus,
cho dù là người Do Thái hay người ngoại bang, người Hà Lan hoặc người Hoa, người
da trắng hoặc nâu hoặc đen, giàu hay nghèo, trẻ hay già, người nam hay người nữ
(Ê-phê-sô 2:11 -21). Mọi người tin Chúa Jêsus đều được hoan nghênh tham gia vào
dân tộc mới nầy của Đức Chúa Trời".
Nhưng một số điều đó có thể đúng, gần như
tự động có ý nghĩ nảy sinh là dân Do Thái - Y-sơ-ra-ên - đã ngừng làm tuyển dân
của Đức Chúa Trời rồi. Đức Chúa Trời đã loại bỏ con trai đầu lòng của Ngài rồi
sao. Một người được ban cho ấn tượng rằng Y-sơ-ra-ên đã là tuyển dân của Đức
Chúa Trời CHO ĐẾN KHI họ nói "không" với Chúa Jêsus. Sau đó Đức Chúa
Trời nói 'không' với người Do Thái. Và vị trí của họ đã được một dân tộc mới của
Đức Chúa Trời tiếp lấy. Bởi Hội thánh. Bởi những người tin Chúa Jêsus. Lời dạy
dỗ nầy của các nhà thần học trong Hội thánh được gọi là: Thần học-Sự Thay thế.
Hội thánh thay thế Y-sơ-ra-ên làm tuyển dân của Đức Chúa Trời.
Khi đọc Tân Ước một cách đặc biệt thì hội
thánh sẽ nói: "Họ, người Do Thái, đã chối bỏ Chúa Giêsu và do đó họ không
còn là tuyển dân của Đức Chúa Trời nữa. Và mặc dù rất buồn, nếu bạn muốn biết
điều gì sẽ xảy ra cho một dân tộc chống nghịch Đức Chúa Trời và Đấng Xức Dầu của
Ngài, thì hãy nhìn vào dân Do Thái. Thật khủng khiếp, suốt những thế kỷ đã có
các cuộc bức hại người Do Thái, nhưng sau tất cả mọi sự, họ đã giết chết Chúa
Jêsus và hiện đang bị Đức Chúa Trời trừng phạt. Há họ đã không nói, “Xin huyết
của nó đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi!” sao? (Ma-thi-ơ 27:25). Vâng, mọi
sự đều rất buồn, những gì đã xảy ra với người Do Thái, nhưng há đó không phải
là lỗi lầm của họ sao ? Đó là một lời cảnh báo đối với tất cả chúng ta! Vì thế
Hội thánh bắt đầu đọc Kinh thánh theo một cách khác.
Hội thánh như đã nói theo một cách
"thuộc linh" như sau. Bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào trong Kinh
Thánh mà họ đọc thấy có chép về ơn phước dành cho Y-sơ-ra-ên, thì Hội thánh
nói: điều đó dành cho chúng ta, cho dân Y-sơ-ra-ên "thuộc linh" và mới
mẻ. Nhưng bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào họ đọc trong Kinh Thánh có chép về
hình phạt và sự phán xét dành cho người Do Thái, Hội thánh nói: điều đó là phần
của người Do Thái, dành cho Y-sơ-ra-ên theo xác thịt! Các dịch giả Kinh Thánh
xưa kia thậm chí còn đưa các chú thích lên đầu các chương trong Kinh Thánh nói
về Y-sơ-ra-ên - ví dụ Ê-sai 60: Vinh quang cho Hội thánh! Bằng cách này các chú
thích và câu đó không có trong nguyên văn tiếng Hê-bơ-rơ (hoặc Hi Lạp) theo văn
bản. Chúng được các dịch giả thêm vào về sau.
Vì vậy, các dịch giả chỉ đơn giản nắm lấy
vị trí bất cứ nơi nào phước lành đã được đề cập dành cho Y-sơ-ra-ên thi người
đó phải giải thích điều này theo cách 'thuộc linh', có nghĩa là: 'phước lành
dành cho Hội thánh'! Và bất cứ nơi nào chép lời nguyền rủa hay phán xét đã được
đề cập đến cho Y-sơ-ra-ên, Hội thánh chỉ đơn giản nói: điều đó dành cho người
Do Thái! Đó là tại sao biết bao Cơ-Đốc nhân đã nói chuyện, suy nghĩ, và vẫn cứ
làm như vậy ngày hôm nay. "Đức Chúa Trời không đặc biệt liên quan đến dân
Do Thái", họ nói, "ngoại trừ khi dân Do- thái nhận được những trừng
phạt và phán xét của Ngài, trong khi Hội thánh Cơ Đốc nhận được các phước lành
phong phú của Ngài. Nhưng lẽ thật thiết thực rất đơn giản: bất cứ khi nào Kinh
Thánh nói về 'Y-sơ-ra-ên', nó có nghĩa là dân 'Do Thái'. Và bất cứ khi nào Kinh
Thánh nói về 'Hội thánh', nó có nghĩa là dân 'Hội thánh'- dân Cơ-Đốc. Vì vậy,
nó rất đơn giản: Y-sơ-ra-ên là Y-sơ-ra-ên và Hội thánh là Hội thánh trong Kinh Thánh!
Vì vậy,
điều đó rất đơn giản: Y-sơ-ra-ên = Y-sơ-ra-ên và Hội thánh = Hội thánh! Đó là biết
bao nhiêu Cơ-Đốc nhân đã nói chuyện, suy nghĩ, và vẫn làm ngày hôm nay. "Đức
Chúa Trời không đặc biệt liên quan đến dân Do Thái", họ nói, "ngoại
trừ khi họ nhận được những trừng phạt và phán xét của Ngài, trong khi hội thánh
Cơ Đốc nhận được các phước lành phong phú của Ngài.
Họ nói, "chỉ cần nhìn thế nào Hội thánh
đã phát triển kể từ khi hoàng đế Constantine làm Cơ -Đốc giáo thành tôn giáo
chính thức (công giáo) của Đế quốc La Mã. Việc đó làm giảm giá trị Đế chế từ
bên trong và đẩy bóng tối ngoại giáo xa hơn và xa hơn nữa khắp Châu Âu. Nền văn
minh Cơ Đốc đã nổi lên ở các nước Tây Âu và Đông Âu, ở Nga và Mỹ, ở Úc và Châu
Phi, và bất cứ nơi nào các nhà truyền giáo đã đến". Vâng, chắc chắn có một
số sự thật trong tất cả những điều này!
- Không phải người Do Thái
Nhưng những gì xảy ra cho dân Y-sơ-ra-ên?
Người Do thái lang thang."Mù quáng, tham tiền, luôn lừa đảo và khao khát
quyền lực" là những gì mà nhiều người đã nói hoặc nghĩ, và một số vẫn làm.
Người Do thái đã trở thành một sinh vật bị săn bắt. Hội thánh Cơ Đốc đã thuận
tiện quên rằng chính họ đã ép người Do Thái vào dịch vụ kinh doanh cho vay
trong thời Trung Cổ bằng cách dán nhãn họ là "vô thần" và không phải
là một điều gì đó cho các Cơ-Đốc nhân kính trọng. Hội thánh quên rằng bản thân
mình đã ngăn cản người Do Thái theo đường thương mại mà nên lấy những nghề nghiệp
và việc làm bình thường.
Về những người Do Thái được mệnh danh là
'khao khát quyền lực' thì thể nào? Nếu bạn theo dõi các cuộc đấu tranh giành
quyền lực giữa các vị vua Cơ Đốc và các vị giáo hoàng, địa chủ và tầng lớp quý
tộc, các thương gia và nông dân, công dân và tu viện qua các thời đại ở tất cả
các nước châu Âu, bạn sẽ có được một ấn tượng tốt về những gì mà thuật ngữ
"đói khát quyền lực" ngụ ý là gì. Thời gian sau người Do Thái bị cướp
bóc, săn bắt, hãm hiếp, bị chia cắt, bị đưa vào khu ổ chuột và cuối cùng họ bị
đưa đến các trại tập trung, nơi có một nỗ lực có hệ thống nhằm giết mọi người
Do Thái, từ người già nhất đến người trẻ nhất. Tất cả họ đều bị hít khí độc và
xác chết của họ được đốt trong lò hỏa táng. Việc bắt bớ người Do Thái thậm chí
còn được Hội thánh xem là làm đẹp lòng Đức Chúa Trời. Rốt lại, há không phải những
người giết Chúa Jêsus không phải là người Do -thái sao? Thật dễ quên rằng người
Do Thái không giết Chúa Jêsus, nhưng người ngoài Do Thái, người La Mã đã làm điều
đó. Người Do Thái thậm chí còn không đủ quyền cai trị trong đất nước của họ để
được phép thực hiện án tử hình cho tội nhân nào. Người La Mã phụ trách sự hành
quyết tử tội tại xứ Do thái.. Bất cứ khi nào toà án Do thái áp dụng hình phạt tử
hình, họ phải xin phép từ biện lí Rô-ma - trong trường hợp của Chúa Giêsu là
Bôn-xơ Phi-lát - và nếu ông ta đã chấp nhập lời thỉnh nguyện, bản án đã được những
người lính La mã thực hiện. Người Do thái đã kết án Ngài phải chết, và những
người ngoài Do Thái, người Rô-ma, đã đóng đinh Ngài. Họ đã thực thi án tử hình
được Phi-lát chấp nhận và tuyên bố.
Có phải Phi-lát bị áp lực làm theo những
gì người Do Thái muốn không? Chắc chắn rồi. Mặc dù Bôn-xơ Phi-lát không dễ bị
hăm dọa. Trong Phúc Âm Lu-ca, chương 13 chúng ta đọc "về việc Bôn-xơ Phi-lát
giết những người Ga-li-lê, khiến máu của họ hòa lẫn với sinh tế họ đang
dâng". Đôi khi ông ta chỉ đơn giản gửi quân đội, tạo ra một phòng tắm máu
và dập tắt cuộc cách mạng. Nhưng trong trường hợp Chúa Giêsu, ông quyết định
khác. Mặc dù ông rửa tay trong chậu nước, tuyên bố rằng ông vô tội về máu của
Chúa Giêsu, dĩ nhiên ông vẫn chịu trách nhiệm. Ông là thống đốc La mã. Người Do
Thái không thể thực hiện bất kỳ hình phạt tử hình nào, bởi vì họ đã là dân thuộc
địa của người La Mã.
Hội Thánh đầu tiên biết ai chịu trách nhiệm.
Đó là lý do tại sao Bôn-xơ Phi-lát được đề cập rõ ràng trong bài tín điều các sứ
đồ, bắt nguồn từ Hội thánh đầu tiên: "(Ngài) chịu thương khó dưới tay Bôn-xơ Phi-lát, bị
đóng đinh trên thập tự giá, chịu chết, và
chôn". Ngoài Danh của Chúa Giêsu và Ma-ri, tên tuổi duy nhất khác
được đề cập trong trong bài tín điều các sứ đồ cổ xưa này là tên của Bôn-xơ
Phi-lát! Hội thánh đaầu tiên biết ai chịu trách nhiệm. Do đó về mặt kỹ thuật và
lịch sử, thật không đúng khi nói rằng chính những người Do Thái đã giết chết
Chúa Jêsus. Sứ đồ Giăng, người đứng bên cạnh thập tự giá và quan sát những người
lính La mã dùng đinh to đóng vào bàn tay và bàn chân của Chúa Giêsu, và cuối
cùng dùng ngọn giáo đâm xuyên vào sườn Ngài, cho biết: "Những điều nầy xảy
ra để được ứng nghiệm lời Kinh Thánh... “Họ sẽ nhìn thấy người mình đã
đâm”(Giăng 19: 36-37). Ai đã đóng đinh? Người La Mã đã làm. Ai đã nhìn thấy?
Người Do Thái đã thấy. Vì vậy, nếu bạn muốn nói ai thực sự có lỗi và chịu trách
nhiệm- về cái chết của Chúa Jêsus, câu trả lời là tất cả chúng ta đều có tội.
Dường như mỗi người trong chúng ta, nói cách cá nhân, đã hô la án tử hình của
Chúa, đã cầm búa, cầm đinh và cầm giáo.
"Nhưng Người đã vì tội lỗi của
CHÚNG TA mà bị vết, Vì gian ác của chúng ta mà bị thương. Bởi sự trừng phạt Người
chịu, chúng ta được bình an, Bởi lằn roi Người mang, chúng ta được lành bệnh
"(Êsai 53: 5).
Ngài vốn là Chiên Con của Đức Chúa Trời, là
Đấng đã cất bỏ các tội lỗi của thế gian (Giăng 1:29, 36). Chúa Jêsus đã phán,
"Không ai cất mạng sống Ta đi được, nhưng Ta tự nguyện hi sinh. Ta có quyền
hi sinh mạng sống và có quyền lấy lại" (Giăng 10:18).
Chúa Jêsus đã phán: "Không có ai giết
Ta. Đây là lý do tại sao Ta đã bước vào thế giới này. Làm Chiên Con của Đức
Chúa Trời, để bị giết vì các tội lỗi của thế gian. ĐỂ BAN CHO sự sống của
Ta". Bạn và tôi đã đóng đinh Chúa Giêsu. Người Do thái và người La Mã, cả
thế giới vì sự đó. Nhà thơ người Hà lan theo chủ thuyết Calvin tên là Jacobus Revius hồi thế kỉ 17 thể hiện điều này thật đẹp như
sau:
"Ngài đã mang những nỗi ưu
phiền của chúng ta
Chúa Jêsus ơi, không phải người
Do Thái đã đóng đinh Ngài,
Cũng không phải những kẻ đã phản
bội Ngài trước tòa án,
Cũng không phải những người vui vẻ
bạt tai Ngài,
Cũng không phải những kẻ đánh
Ngài và đập Ngài,
Không phải những người lính với những quả đấm thô bạo,
Ai đặt mão gai hay nhấc búa,
Hoặc dựng cây gỗ rũa sả trên
Gô-gô-tha,
Hoặc bắt thăm và tranh đấu về áo
xống của Ngài:
Chính con, Chúa ơi, con là người
làm điều này,
Con là cây gỗ nặng nề mà Chúa đã
mang,
Con là sợi dây thừng chắc chắn mà
đã trói chặt Ngài,
Là những cây đinh, ngọn giáo,và
roi đánh Ngài,
Mão triều máu tung tóe, Ngài đã đội
trên đầu mình,,
Than ôi! Mọi điều nầy xảy ra đều
vì cớ các tội lỗi của con.
Bởi vì tất cả điều này đã xảy ra,
than ôi (!) Vì tội lỗi của con".
Nhưng trong nhiều thế kỷ, Cơ Đốc giáo giới
đã cố chấp cho rằng dân Do Thái- Y-sơ-ra-ên- đã giết Đấng Christ và kết quả là có
sự phán xét của Đức Chúa Trời giáng trên họ. Chúng ta, Hội thánh, là dân tộc mới
mẻ của Đức Chúa Trời- Hội thánh nói- và nếu người Do Thái muốn tham gia cùng
chúng ta, thì cũng giống như mọi người khác, họ phải tin Chúa Jêsus, chịu phép
báp têm, và hiệu quả, hãy ngừng làm người Do Thái. Nhưng một người đàn ông
không còn là đàn ông nữa, hoặc đàn bà không còn là phụ nữ nữa (Galati 3: 26-29)
hoặc người Trung Quốc không còn là người Trung Quốc nữa khi họ đến với đức tin
chăng? Tuy nhiên, chúng ta mong đợi một người Do Thái ngừng làm người Do Thái
khi anh ta đến với đức tin nơi Chúa Jêsus! Và nếu người Do Thái không làm điều
này, như Hội thánh đã nói, thì sự phán xét của Đức Chúa Trời sẽ tiếp tục ở trên
họ (Giăng 3:36). Đáng ngạc nhiên, Hội thánh Cơ đốc thường đã giúp bổ túc
"phán xét của Đức Chúa Trời" trên người Do Thái!
-Huyết của Ngài đang ở trên chúng ta
Một trong những câu kinh thánh đã được Hội
thánh sử dụng trong suốt các thời đại dạy rằng Y-sơ-ra-ên đã bị loại bỏ cùng đặt
dưới sự nguyền rủa và xét đoán mãi mãi của Đức Chúa Trời, và rằng Hội thánh đã
thay thế Y-sơ-ra-ên làm tuyển dân Đức Chúa Trời, là Ma-thi-ơ 27: 25b : "Xin
huyết của nó đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi!”. (có lẽ nền tảng cho lời
diễn tả này có thể tìm thấy trong Ê-xê-chi-ên 3: 16-21).
Chính là câu này, tiếng kêu kinh khủng của
đám đông ở Giê-ru-sa-lem, thường được trích dẫn để bảo vệ quan điểm cho rằng số
phận bi thảm của Y-sơ-ra-ên trong suốt lịch sử là lỗi lầm của họ. Nhiều người
đã nói: "Vâng, thật khủng khiếp, tất cả những gì đó xảy ra trong suốt nhiều
thế kỷ với người Do Thái. Nhưng chúng ta hãy đối mặt với điều đó, có phải họ ít
nhiều yêu cầu điều đó khi họ giết Chúa Jêsus không? Đây không phải là lời cảnh
báo cho tất cả chúng ta sao? Phải chăng điều này sẽ xảy ra cho những người chối
bỏ Chúa và Đấng Xức Dầu của Ngài? Đây là sự phán xét của Đức Chúa Trời!".
Và như thế Hội thánh qua nhiều thế kỷ thậm chí đã "giúp" đưa ra sự
phán xét này của Đức Chúa Trời bằng cách phát triển một nền thần học Cơ-Đốc có
thể được đặt tên là "Chủ nghĩa Cơ Đốc bài Do Thái" bằng cách kích động
hận thù và tạo ra một cuộc chống đối, bầu không khí chống Do Thái, trong đó các
cuộc bức hại khủng khiếp của người Do Thái có thể xảy ra. Mặc dù cần nhớ rằng một
số Cơ-Đốc nhân cá nhân đã hành xử rất tử tế và cố gắng giúp đỡ người Do Thái càng nhiều càng tốt.
Vậy chúng ta hãy xem câu Kinh thánh này cẩn
thận hơn để không vội đi đến kết luận này. Nhiều Cơ-Đốc nhân, như tôi, tin rằng
Kinh Thánh là Lời của Đức Chúa Trời, hoàn toàn đáng tin cậy và xứng đáng tin cậy.
Và người ta nên tiếp nhận nghĩa đen các chữ nầy trước tiên và chấp nhận rồi sau
đó tin tưởng chúng, trước khi người ta bắt đầu tìm kiếm những ý nghĩa và lời giải
thích thuộc linh. Chúng ta không nên làm thuộc linh hóa hoặc đặt thành chuyện
ngôn Lời của Đức Chúa Trời, mặc dù chúng ta luôn có thể rút ra những bài học
thuộc linh từ đó.
--Có ít nhất bảy nhận xét về câu này.
1. Có lẽ một vài trăm người Do
thái bị một số lãnh đạo tôn giáo của họ khích động đứng lên, trước dinh thự của
Bôn-xơ Phi-lát và hét lên, "Xin huyết của nó đổ trên chúng tôi và con cháu
chúng tôi!”. Chúa Jêsus dường như rất nổi tiếng, thậm chi giữa dân Giê-ru-sa-lem. Tại sao lại bắt giữ
Ngài vào ban đêm? (Mác 14: 2, Lu-ca 22: 6). Họ vừa chào đón Ngài vào thành phố,
hét lên: Baruch haba là Shem Adonai! Hosanna! “Chúc tụng Vua nhân danh Chúa mà
đến (Phước cho vương quốc sắp đến của vua Đa-vít, tổ phụ chúng ta!)"
(Ma-thi-ơ 21: 9, Mác 11: 9, Lu-ca 19:38, Giăng 12:13). Giê-ru-sa-lem có nhiều
hy vọng lớn cho Ngài.
Dân chúng sống ở miền Bắc Y-sơ-ra-ên không
có manh mối những gì đang xảy ra ở Giê-ru-sa-lem- không có đài phát thanh, truyền
hình, điện thoại, internet hay các phương tiện truyền thông hiện đại khác trong
những ngày đó. Nếu ở Ga-li-lê khi ấy, nơi Ngài đã sống và được nhiều người biết
đến, họ được biết đến những gì đang xảy ra ở Giêrusalem, nhiều người trong số họ
chắc chắn sẽ không tán thành việc la hét lên như vậy. Nếu họ biết được sự việc ở
Giê-ru-sa-lem, có thể có một cuộc nổi dậy tự phát khác, một cuộc nổi dậy chống
lại người La Mã, sẽ bắt đầu ở Ga-li-lê. Vậy ai có thể nắm giữ toàn bộ Giê-ru-sa-lem,
cả Y-sơ-ra-ên và toàn thể dân Do Thái cùng nhau chịu trách nhiệm về những gì
đám đông nhỏ này ở Giê-ru-sa-lem đã bị một số nhà lãnh đạo tôn giáo của họ kích
động kêu xin đóng đinh Ngài? Hội thánh đã làm như vậy, và đứng nhận tội lỗi cho
cái chết của Chúa Giêsu khi chân mang đôi giày của người Do Thái. Điều nầy là do quỷ
dữ, và nó đã dẫn tới sự đổ tràn dòng máu người Do Thái trong các vùng đất của
Cơ Đốc giáo giới.
Giả sử một đám đông nhỏ ở Amsterdam làm
cái gì đó khủng khiếp, và các phương tiện truyền thông trên khắp thế giới hét
lên 'Amsterdam khủng khiếp quá!' Thật bất công với rất nhiều người tốt, dân tử
tế sống ở Amsterdam biết bao! Hoặc các phương tiện truyền thông trên toàn thế
giới sẽ nói rằng 'Hà Lan là một đất nước tồi tệ và tất cả người Hà Lan đều đáng
khinh bỉ và xấu xa'. Điều đó hoàn toàn không công bằng đối với quốc gia Hà Lan
của chúng tôi, bởi vì nhiều người trong chúng tôi là những người rất tử tế! Hoặc
"Hà Lan là một bọn tội phạm - họ là, họ luôn luôn có và họ sẽ luôn luôn
là: hãy nhìn vào những gì họ đã làm" Điều đó là ma quỷ, không đúng và hoàn
toàn sai trật, và Hà Lan sẽ phản đối những cáo buộc như vậy cách mạnh mẽ theo
khả năng của mình, kịch liệt từ chối những điều đó. Nhưng điều đó chính xác là
điều đã được hội thánh và nhiều nhà thần học nói về người Do Thái.
2. Áp dụng nguyên lý lấy các câu
Kinh thánh theo nghĩa đầu tiên và nghĩa đen của chúng đối với những từ ngữ khủng
khiếp này, chúng phải đã được hoàn thành. Họ hét lên, "trên CHÚNG TÔI và
con cháu chúng tôi!", có nghĩa là trên thế hệ đặc biệt đó và con cái họ, trên
thế hệ kế tiếp của những người dân cư Giê-ru-sa-lem này. Những người Do Thái đã
hét lên những lời này, và con cái của họ, đã bị người La Mã giết tại Giê-ru-sa-lem
40 năm sau. Một trong những số mục kinh thánh cho sự kéo dài một thế hệ là 40 năm,
đề cập đến thời gian lang thang của họ trong sa mạc khi thế hệ rời Ai Cập đã chết
vì sự không tin của họ. Một số mục khác là 70 năm, kéo dài thời gian của một
người cha đến con trai ông, "từ thế hệ nầy sang thế hệ khác"
(Đa-ni-ên 4: 3 và 4:34). Và số mục khác nữa là 100 năm (Sáng thế ký 15:16 và
13). Vào năm 70 S.C., Titus và quân đội của ông đã san bằng thành phố và đền thờ
xuống đất, giết chết 1.100.000 người Do Thái (theo sử gia Do Thái, Flavius
Josephus) và đóng đinh hàng ngàn người từ Giê-ru-sa-lem tới bờ biển Địa Trung Hải,
cho đến khi không còn đủ gỗ làm thêm thập tự giá!
Theo sử gia La Mã, Dio Cassius, vào năm
135 S.C. Hoàng đế Hadrian đã hoàn thành công việc, bằng cách dập tắt cuộc nổi dậy
dưới thời Simon Bar Kokhba trong 3 năm, giết chết thêm 600.000 người Do Thái -
ngoài những người chết vì đói, bệnh tật và lửa. Có phải những khoảnh khắc nầy
mà Máu của Ngài 'đã đổ xuống trên họ và con cái của họ' cùng một thế hệ và con
cái họ, thế hệ tiếp theo không? Những vụ tàn sát này diễn ra trong 40 và 100
năm sau khi Chúa Giêsu bị đóng đinh (vào khoảng năm 30 sau Công nguyên). Vì thế,
bởi sự tàn sát có quy mô lớn, lời tiên tri này đã được ứng nghiệm- nếu người ta
lấy từ ngữ "trên chúng tôi và con
cái của chúng tôi" theo ý nghĩa đầu tiên và nghĩa đen. Và tất cả những phần
huyết người Do Thái còn lại đổ ra từ nhiều thế kỷ kể từ đó, không liên quan đến
sự phán xét của Đức Chúa Trời, nhưng là những tội lỗi khủng khiếp, những tội ác
của loài người, chờ đợi sự phán xét cuối cùng của Đức Chúa Trời.
3. Nhưng điều này dẫn đến câu hỏi
khác. Có phải người La mã thực sự đưa sự phán xét của Đức Chúa Trời đến trên những
người Do Thái này, trên họ và con cái họ không? Có phải đây là sự phán xét của
Đức Chúa Trời không? Đức Chúa Trời có phán xét cách như vậy không? Bởi vì ngay
cả khi sự cảm thán này có nghĩa là đám đông Do Thái nhỏ với một số lãnh đạo của
họ ở Giê-ru-sa-lem đã chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa Jesus - và thực sự
40 năm sau các bình đoàn La mã bắt giữ, phá hủy Jerusalem và đền thờ, rồi tàn
sát cách tàn bạo thế hệ đó và con cái họ: trong số đó chắc chắn có hàng ngàn
Cơ-Đốc nhân Do Thái! Liệu Đức Chúa Trời có bao gồm cả Cơ-Đốc nhân Do Thái trong
một 'phán xét' như vậy chăng? Câu hỏi tất cả Cơ Đốc nhân Do Thái đã có chạy trốn
đến Pella hay không trước khi quân La mã vây thành Giê-ru-sa-lem, vẫn là một vấn
đề tranh luận nóng bỏng của các sử gia. Một số nói rằng không có cuộc chạy trốn
như vậy!
Vì vậy, trong số nhiều nạn nhân của những
hành động tàn bạo từ các quân đoàn La Mã có thể có nhiều Cơ Đốc nhân Do thái,
cũng như một số Cơ Đốc nhân ngoại bang. Và cũng có nhiều người Do Thái ở Giê-ru-sa-lem,
những người thậm chí không tham gia trong đám đông đang hét lên và gào thét trước
khi Bôn-xơ Phi-lát đòi hỏi đóng đinh Chúa Jesus. Họ có đáng bị Đức Chúa Trời
phán xét không? Vì vậy, đây là một lý do khác để đặt câu hỏi: liệu sự tàn phá
dân cư Giêrusalem nầy vào năm 70 và 135 S.C. có thực sự là một 'sự phán xét của
Đức Chúa Trời không'? Liệu Đức Chúa Trời có phán xét theo cách như vậy không?
4. Kể từ đó, qua nhiều thế kỷ, rất
nhiều máu người Do thái vô tội đã đổ ra. Trong các vùng đất của Cơ Đốc giáo giới
ở Châu Âu và các nơi khác trên thế giới- và trong thế giới Hồi giáo. Tất cả những
dòng máu tràn ngập này đang chờ sự trả thù của Đức Chúa Trời trong sự Phán xét
Sau cùng. Hoặc là TẤT CẢ máu vô tội, của người
Do Thái và không Do Thái, trong 2000 năm gần đây và vẫn còn kêu cứu từ
trái đất? Có phải tất cả các tội ác, giết người và sát nhân hàng loạt đang chờ
sự phán xét của Đức Chúa Trời vào cuối thời đại không? Máu vô tội như của
Xa-cha-ri, con của Ba-ra-chi (Ma-thi-ơ 23:35): "Vậy tất cả (vào lúc phán
xét cuối cùng?) máu vô tội đã chảy ra
trên đất đổ lên các ông, từ máu A-bên là người công chính đến máu Xa-cha-ri,
con của Ba-ra-chi mà các ông đã giết khoảng giữa thánh điện và bàn thờ?"
Có sự khác biệt giữa "máu vô tội hay
máu công nghĩa" đổ tràn ngập, từ trước và sau Đấng Christ không? Sự phán
xét của Đức Chúa Trời đối với máu vô tội của "Xa-cha-ri, con của
Ba-ra-chi" - do một số người Do Thái làm đổ ra vài thế kỷ trước Đấng
Christ - có xảy ra trong sự tàn phá kinh khủng này của Giê-ru-sa-lem vào năm 70
sau Công Nguyên chăng? Đức Chúa Trời có sự phán xét đặc biệt đối với người Do
Thái trong trường hợp 'đổ máu' nầy không? Hoặc tất cả những dòng máu vô tội đổ ra
trên trái đất qua tất cả các thế kỷ của lịch sử nhân loại - Do thái và không phải
Do Thái - kể cả máu của "Xa-cha-ri, con của Ba-ra-chi", đều chờ đợi sự
trả thù của Đức Chúa Trời Toàn năng vào ngày cuối cùng trong cơn thịnh nộ của
Ngài,vào thời kì cuối cùng chăng? Bởi vì máu của A-bên đã đổ ra mà Chúa Giê-xu
đã nói, đã bị đổ ra từ lâu trước khi dân Do Thái còn tồn tại, ngay cả trước
Áp-ra-ham, ngay cả trước cơn Nước Lụt!
5. Và ai là Đấng cuối cùng sẽ
"trả thù"? Ai sẽ đem lại sự phán xét? Con người hay Đức Chúa Trời?
Người Rô-ma có thể đưa ra sự phán xét của Đức Chúa Trời trên Y-sơ-ra-ên
không? Người ta có thể thi hành án phạt
của Đức Chúa Trời không? Phao-lô nói trong Rô-ma 12:19: "đừng tự tay mình
báo thù ai, nhưng hãy nhường cho cơn thịnh nộ của Đức Chúa Trời; vì có lời Chúa
phán: “Sự trả thù thuộc về Ta, Ta sẽ báo ứng”. Một ngày nào đó, Đức Chúa Trời sẽ
trả thù cho những hành động sai trái của con người và tất cả sự đổ máu vô tội.
Giống như dòng máu vô tội của những người tử đạo Cơ-Đốc nhân - Khải huyền 6:
9-11: "Khi Chiên Con mở ấn thứ năm, tôi thấy dưới bàn thờ có linh hồn của
những người đã bị giết vì lời Đức Chúa Trời và vì lời làm chứng của họ. Họ kêu
lớn tiếng rằng: “Lạy Chúa là Đấng thánh và chân thật, còn bao lâu nữa Chúa mới
xét đoán, và vì máu chúng tôi mà báo thù những kẻ ở trên đất?” Mỗi người trong số họ được ban cho một áo dài
trắng, và được bảo phải an nghỉ ít lâu nữa, cho đến lúc đủ số những bạn đồng
lao và anh em của họ phải bị giết như họ".
Một ngày kia, cuối cùng Đức Chúa Trời sẽ
ngồi phán xét trả thù cho tất cả máu vô tội đã đổ tràn trên trái đất này. Dòng
máu vô tội tất cả các nạn nhân của bạo lực, bao gồm hàng triệu người bị giết chết
trong dạ con do con người phá thai; các nạn nhân của sự hãm hiếp; loạn luân; Những
người bị khai thác; các nô lệ; những kẻ tra tấn và kẻ giết người; các nhà độc
tài và những kẻ bóc lột, những kẻ giết người Do Thái qua nhiều thế kỷ, lên đến
đỉnh điểm là những tội ác đã phạm phải trong các trại tập trung, khu ổ chuột,
làng mạc, thành phố, tại châu Âu và các nơi khác trên thế giới. Ngài sẽ phán
xét những thủ phạm người La Mã, Đức, Hà Lan, Trung Quốc, Nga, Mỹ, Tây Ban Nha,
Anh, Ả Rập, Palestine, Do Thái và bất kể chủng tộc hay nền văn hoá, tôn giáo
hay triết học nào.
Trong Khải huyền 21: 8 sứ đồ Giăng nói:
"Còn những kẻ hèn nhát, kẻ chẳng tin, kẻ đáng ghê tởm, kẻ giết người, kẻ
gian dâm, kẻ hành nghề ma thuật, kẻ thờ thần tượng, và tất cả những kẻ nói dối,
thì phần của chúng là hồ lửa lưu huỳnh đang bừng cháy. Đó là sự chết thứ
hai.”
Và trong Ga-la-ti 5: 19-21 Phao-lô nói:
"Công việc của xác thịt thật rõ ràng, đó là: gian dâm, ô uế, buông tuồng, thờ
hình tượng, phù phép, thù oán, gây gổ, ghen ghét, giận dữ, ích kỷ, bất bình,
phe đảng, ganh tị, say sưa, chè chén, và
những việc tương tự khác. Tôi cảnh cáo anh em, như tôi đã từng cảnh cáo: Những
ai làm các việc như thế sẽ KHÔNG được hưởng vương quốc Đức Chúa Trời".
Kết luận phải là: tất cả tội lỗi của con
người - Do Thái và người ngoài Do Thái không giống nhau - đều chờ đợi sự phán
xét của Đức Chúa Trời vào thời cuối cùng. Ngài là Thẩm Phán. Loài người không
bao giờ có thể thi hành sự phán xét của Đức Chúa Trời. Tất cả mọi người đang chờ
phán quyết cuối cùng vào cuối thời đại. Cho đến thời điểm đó chỉ có một Người bị
trừng phạt và cảm thấy Đức Chúa Trời phán xét thay mặt cho tất cả chúng ta:
Chúa Jêsus. Bất cứ ai đặt đức tin của mình vào Người sẽ không đến với sự phán
xét cuối cùng của Đức Chúa Trời, như Kinh Thánh nói. Do đó có thể, sự tàn phá của
người La Mã trên Giê-ru-sa-lem và vùng đất của Y-sơ-ra-ên vào năm 70 và 135 sau
Công nguyên không phải là phán xét của Đức Chúa Trời, mà là những tội ác của
người La Mã - những người sẽ chịu trách nhiệm về những việc làm nầy vào ngày cuối
cùng trong sự phán xét của Đức Chúa Trời.
6. Có lẽ có một cách giải thích
khác về đám đông hét lên này. Liệu tiếng kêu của đám đông ở Giê-ru-sa-lem có phải
là một lẽ thật tiên tri vô tri, vô ý thức và không chủ ý được thốt ra chăng? Bạn
có thể nói rằng điều đó có một chút xa vời. Đó không phải là điều họ muốn làm!
Nhưng điều đó đã xảy ra trước đây. Đã xảy ra với thầy tế lễ cả Cai-phe, và được
trích dẫn trong Giăng 11: 49-50. Họ đang bàn phải làm gì với Chúa Jêsus. Họ sợ
rằng Ngài sẽ nổi tiếng, nhiều người ngưỡng mộ, đến nỗi một cuộc nổi dậy tự phát
chống lại người La Mã, một cuộc cách mạng quốc gia, sẽ xảy ra. Và họ sợ rằng
khi đó Bôn-xơ Phi-lát lại sẽ phái quân đội, tàn sát người Do-thái và tạo ra một
cuộc tắm máu- như ông ta đã từng làm trước đó- và do đó quyền tự do tương đối của
họ để giải quyết các vấn đề quốc gia và tôn giáo của họ sẽ biến mất. Vậy phải
làm gi? Sau khi thảo luận, Cai-phe đưa ra một giải pháp. Không phải là một điều
rất hay, nhưng chính trị đôi khi không hay. 'Chính trị thiết thực', người Đức gọi
nó như vậy. Có thể - nói về mặt đạo đức - không tốt, nhưng cần thiết và không
thể tránh khỏi. Mục đích biện minh cho phương tiện. Một sai lầm nhỏ vẫn là tốt
hơn cho một lợi ích lớn hơn. Giăng chép lại: "Nhưng một người trong số họ
là Cai-phe, thầy tế lễ thượng phẩm trong năm ấy, nói với họ: “Các ông chẳng biết
gì cả! Các ông không hiểu rằng, thà để một người chết thay cho dân, còn hơn cả
dân tộc phải bị hủy diệt”.
Cai-phe không hiểu ý nghĩa đầy đủ của những
gì ông nói và ông chắc chắn không có ngụ ý những từ ngữ đó là bất cứ điều gì
khác hơn là một tuyên bố chính trị thực tế. Nhưng chúng tuyệt đối là lời tiên
tri! Và theo nghĩa đó, sứ đồ Giăng đã hiểu những từ ngữ đó. Điều đó hoàn toàn
đúng! Đó là kế hoạch cứu rỗi! Chúa Jêsus, 'một người', sẽ chết - để cứu chuộc
nhiều người và cứu họ, người Do Thái và người ngoại bang! Một người đàn ông sẽ
chết thay cho toàn bộ dân tộc Do Thái hoặc, và sự việc đó, cứu toàn thể nhân loại.
Đức Chúa Trời trong ân sủng của Ngài đã tìm ra và thực hiện giải pháp đáng kinh
ngạc này cho nan đề tội lỗi của con người! Và Con Trai đã hợp tác hết lòng với
những mục đích yêu thương của Cha yêu thương và đã làm cho cuộc sống của Ngài
trở nên Chiên Con không chỗ chê trách của Đức Chúa Trời, mà có thể bị giết chết
vì tội lỗi của thế gian.
Trong Giăng 11: 50-52 liên quan đến những
lời của Cai-phe, Giăng giải thích: "Ông ta không tự nói điều đó, nhưng vì
là thầy tế lễ thượng phẩm trong năm ấy, nên ông ta nói tiên tri về Đức Chúa
Jêsus sẽ vì dân chịu chết, không phải chỉ
vì dân tộc nầy mà thôi, nhưng cũng để quy tụ những con cái của Đức Chúa Trời bị
tan lạc lại làm một". Cai-phe không có ý nói theo cách này, nhưng ông đã
nói theo cách này. Ông ấy đã vô ý nói một sự thật có tính tiên tri. Liệu tiếng
kêu "Xin huyết của nó đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi!” được nhìn
theo cùng một cách khác chăng? Là một lời cảm thán tiên tri vô ý, nhưng vẫn sâu
sắc về mặt thuộc linh và chân thật mặt tiên tri chăng? Bởi vì máu của Chúa
Giêsu đến trên họ và con cái của họ, và trên chúng ta và con cái của chúng ta để
làm sạch chúng ta khỏi tất cả các tội lỗi của chúng ta! Máu của Chúa Jêsus phải
đến và sẽ đến trên Y-sơ-ra-ên để làm sạch tội lỗi của Y-sơ-ra-ên. Tất nhiên những
gì họ muốn nói là "chúng tôi tự chịu trách nhiệm về cái chết của Chúa
Jêsus". Nhưng họ nói điều đó theo một cách mà cũng có thể là một cảm thán
có tính tiên tri không chủ ý - nghe có vẻ như là một lời cầu nguyện: "Xin
huyết của nó đổ trên chúng tôi và con cháu chúng tôi!”. Dĩ nhiên, tiếng kêu của
họ không phải là một 'lời cầu nguyện chân thành của tội nhân', nhưng họ vẫn nói
lên một sự thật sâu sắc. Điều này dẫn đến kết quả cuối cùng, và theo quan điểm
của tôi, là điểm quyết định.
7. Chúa Giêsu đã cầu nguyện trên
thập tự giá: "Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết mình làm điều
gì" (Luca 23: 34a). Khi Ngài đang cầu nguyện lời cầu nguyện này trên cây
thập tự, Đức Chúa Jêsus là Chiên Con của Đức Chúa Trời, đang dâng huyết Ngài để
chuộc mọi tội lỗi của thế gian, ngay tại đó và về sau. Điều đó làm cho Đức Chúa
Trời có thể tha các tội lỗi của chúng ta. Nhưng bây giờ Ngài đang cầu nguyện
cho một tội lỗi đặc biệt. Từ thập tự giá, Chúa Jêsus đang nhìn những người trực
tiếp tham gia vào sự đóng đinh Ngài. Những người lính La mã và đám đông người
Do Thái đang la hét, Bôn-xơ Phi-lát, Hê-rốt, Hội đồng Công luận và tất cả những
người tham gia vào quá trình lên án và giết chết Ngài. Trong tâm trí của Ngài,
Ngài nhìn thấy tất cả những người đó theo cách này hay cách kia đang nhận lấy
trách nhiệm cho sự chết của Ngài trên cây thập tự. Và Ngài nói: "Lạy Cha,
xin tha cho họ...".
Liệu Đức Chúa Cha có đáp ứng lời cầu nguyện
này của Con hối của Ngài đang hấp không? Chắc chắn có, vì Chúa Jêsus cầu xin
Cha, Ngài đã tha thứ cho những người lính La Mã và đám đông người Do Thái đang
la hét, Bôn-xơ Phi-lát, Hê-rốt, Hội đồng Công luận và tất cả những người tham
gia vào quá trình lên án và giết chết Ngài. Thực sự họ không biết họ đang làm
gì. Họ không có ý tưởng mờ nhạt nhất về những gì đang diễn ra trong sinh tế này
vì tội lỗi trên thập giá. Hội đồng Công luận, Bôn-xơ Phi-lát, Hê-rốt: họ không
biết đầu mối gì đang xảy ra- điều gì thật sự xảy ra. Phi-e-rơ nói trong Công-vụ
3: 17-18: "Thưa anh em, bây giờ tôi biết anh em và những người lãnh đạo của
anh em đã làm điều ấy vì thiếu hiểu biết. Nhưng Đức Chúa Trời đã dùng cách ấy để
làm ứng nghiệm lời Ngài đã báo trước qua môi miệng các nhà tiên tri rằng Đấng
Christ của Ngài phải chịu đau đớn". Chiên Con của Đức Chúa Trời phải bị giết
để các tội lỗi của thế gian được tha thứ. Ngay lập tức Giăng Báp tít nhận ra sự
ủy nhiệm lớn lao nầy của Chúa Jêsus khi ông thấy Ngài đang đến gần ông.
Giăng 1: 29: "Hôm sau, Giăng thấy Đức
Chúa Jêsus đến với mình, thì nói rằng: “Kìa Chiên Con của Đức Chúa Trời, là Đấng
cất tội lỗi của thế gian đi!" Giăng 1: 35-36: "Hôm sau, Giăng lại đứng
tại đó với hai trong số các môn đồ của mình. Khi nhìn thấy Đức Chúa Jêsus đi
ngang qua, ông nói: “Kìa, Chiên Con của Đức Chúa Trời!”. Và Chúa Giêsu không
tình cờ bị sát hại, hoặc trái ngược ý muốn của Ngài. Ngài nói: "Không ai cất
mạng sống Ta đi được, nhưng Ta tự nguyện hi sinh. Ta có quyền hi sinh mạng sống
và có quyền lấy lại" (Giăng 10:18). Ngài đã đến thế gian này, để ban sự sống
của Ngài như một của lễ miễn phí cho các tội lỗi của thế giới. Để được giết chết
như một Chiên Con. Êsai đã nói tiên tri về Ngài trong chương 53: "Thật,
Người đã mang sự đau ốm của chúng ta, Đã gánh nỗi đau khổ của chúng ta Mà chúng
ta lại nghĩ rằng Người đã bị Đức Chúa Trời đánh, đập Và làm cho khốn khổ. Nhưng
Người đã vì tội lỗi của chúng ta mà bị vết, Vì gian ác của chúng ta mà bị
thương. Bởi sự trừng phạt Người chịu, chúng ta được bình an, Bởi lằn roi Người
mang, chúng ta được lành bệnh. Người bị ngược đãi và khốn khổ, Nhưng không hề mở
miệng. Như chiên con bị đem đi làm thịt, Như chiên câm lặng trước mặt kẻ hớt
lông, Người không hề mở miệng. Người đã bị ức hiếp, xét xử và bị giết đi. Trong
những kẻ đồng thời với Người, có ai suy xét rằng Người đã bị đánh phạt và cất
khỏi đất người sống Là vì tội lỗi của dân Ta? Dù Người không hề làm điều hung dữ,
Và chẳng có sự dối trá trong miệng. Đức Giê-hô-va vui lòng để Người bị tổn
thương,Và chịu đau khổ. Vì Người đã đổ mạng sống mình cho đến chết, Đã bị liệt
vào hàng tội nhân, Đã mang lấy tội lỗi nhiều người, Và cầu thay cho những kẻ phạm
tội".
Vì vậy, lời cầu nguyện đặc biệt này của
Chúa Giêsu trên thập tự giá đã kết thúc lời nguyền rủa mà đám đông người Do
thái đã cầu khẩn cho chính họ ngay tại đó. Và tất cả máu người Do thái vô tội
đã đổ tràn qua các thời đại chờ đợi sự phán xét và cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời
vào cuối thời đại nầy.
Hội thánh cần phải thú nhận tội lỗi của
mình đối với nền thần học gần như thuộc về ma quỷ, hiểm ác này qua nhiều thế kỷ,
dẫn đến việc đổ máu của người Do Thái ra như sông và thời đại Cơ Đốc nhân chống
Do thái cổ xưa trước khi quá muộn, hoặc hội thánh sẽ phải chịu trách nhiệm trước
ngôi Đức Chúa Trời. Là những Cơ-Đốc nhân, chúng ta đích thân nhìn vào tấm lòng,
tâm hồn và trí tuệ của chúng ta và tự hỏi liệu còn có bất kỳ chủ nghĩa Cơ Đốc
chống Do Thái ẩn giấu nào ở đó nữa không. Bởi vì Đức Chúa Trời cuối cùng sẽ bắt
chúng ta chịu trách nhiệm. Sau đó đến năm 1948.
- Nhiều câu hỏi dành cho Hội thánh
Ngày 14 tháng 5 năm 1948, David
Ben-Gurion đọc Tuyên ngôn Độc lập của Y-sơ-ra-ên, dẫn đến việc tạo ra Nhà nước
Y-sơ-ra-ên. Sau đó thế giới kinh ngạc khi đã nhìn thấy Chúa là Đức Chúa Trời,
như trong thời Cựu Ước, chiến đấu cho dân Ngài, Y-sơ-ra-ên, chống lại kẻ thù nghịch
có sức mạnh áp đảo nhiều lần, vào các năm 1948, 1956, 1967, 1973, vv. Khi kẻ
thù bước ra định ý tiêu diệt quốc gia Y-sơ-ra-ên. Và căn nhà thần học cổ đã được
hội thánh xây dựng từ mấy thế kỷ, đã đột nhiên sụp đổ. Hay có gì xảy ra? Hội
thánh đã phải đối mặt với nhiều câu hỏi, như:
Y-sơ-ra-ên có trở lại miền đất của họ để ứng
nghiệm lời tiên tri trong Kinh thánh không? Có phải Đức Chúa Trời vẫn còn vướng
mắc với dân Do Thái, với Y-sơ-ra-ên không? Giao ước với Áp-ra-ham, Y-sác và
Gia-cốp, cùng với Môi-se và Giô-suê, có lẽ vẫn còn hiệu lực chứ? Liệu Chúa vẫn
còn thành tín với tất cả các giao ước mà Ngài đã lập với Y-sơ-ra-ên không? Những
điều đó có dời đổi chúng ta, là hội thánh Cơ đốc không? Vị trí của chúng ta với
Đức Chúa Trời là gì? Bởi vì, há không phải là sự thật sao, vì phần lớn,
Y-sơ-ra-ên vẫn không tin Chúa Jêsus mà? Vậy làm sao Chúa vẫn ban phước cho họ?
Làm thế nào tất cả điều nầyphù hợp với nhau được? Mối liên hệ giữa Cựu Ước và
Giao Ước Mới, giữa Cựu và Tân Di Chúc là gì? Liệu có hai (hoặc nhiều hơn) Giao
ước vẫn có hiệu lực cách đồng thời? Có hai dân tộc của Đức Chúa Trời không? Mối
quan hệ của Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên là gì? Những câu hỏi như thế này tiếp
tục chiếm lấy tâm trí hội thánh và các nhà thần học.
- Các Giao ước
Theo ánh sáng của việc Đức Chúa
Trời yêu Y-sơ-ra-ên và đã chọn dân Do Thái cho chính mình Ngài có thể kết luận
rằng "tình yêu và hôn nhân" được xác nhận bằng lời tuyên thệ và là nền
tảng cho mối quan hệ giữa Đức Chúa Trời với Y-sơ-ra-ên. Ngài đã lập các giao ước
với Y-sơ-ra-ên. Và Đức Chúa Trời không tin vào tình yêu tự do - Ngài đã kết hôn
với Y-sơ-ra-ên đúng cách. Ngài đã ký một hợp đồng kết hôn. Ngài đã lấy chính mình
chịu trách nhiệm cho Y-sơ-ra-ên. Giống như chúng ta nói khi chúng ta kết hôn:
"tốt hơn hay tệ hơn, vì giàu có hơn, nghèo hơn, bệnh tật và sức khoẻ, cho
đến chết chúng ta mới chia tay!" Một bài hát tiếng Anh cũ chép: tình yêu
và hôn nhân cùng đi với nhau như một con ngựa và xe ngựa: Bạn không thể có một
mà không có cái kia! Ý tưởng về mối quan hệ giao ước giữa một vị thần và một vị
vua hoặc dân tộc của ông được chứng minh qua lịch sử của vùng Cận Đông cổ. Ý tưởng
về một giao ước như thế không phải là xa lạ đối với người Y-sơ-ra-ên. Do đó
không có gì ngạc nhiên khi Chúa đã sử dụng hình thức liên hệ này để diễn tả mối
quan hệ của Ngài với dân Ngài. Điều này có thể đã bắt đầu từ thời cổ, bởi vì một
ý tưởng như vậy đã được biết đến ở vùng Cận Đông cổ xưa từ thời điểm thiên niên
kỷ thứ 3 trước Công nguyên trở về sau.
Nếu người ta thảo luận về sự phù hợp thì
sẽ thấy rằng từ ngữ giao ước là một trong những điều xảy ra thường xuyên trong
cả Cựu Ước và Tân Ước (Diathèkè). Nó được sử dụng trong các mối quan hệ giữa Đức
Chúa Trời với con người, con người và con người, quốc gia và quốc gia. Nó được
sử dụng trong những điều tạm thời và mọi thứ vĩnh cửu. Có những tài liệu tham
khảo về các giao ước nhỏ và tạm thời trong Kinh Thánh. Các giao ước được thực
hiện bởi các cá nhân với các cá nhân khác (Sáng thế ký 21:32, 1 Sa-mu-ên 18:
3). Các giao ước có thể được thực hiện giữa một cá nhân và một nhóm cá nhân
(Sáng thế ký 26:28, 1 Sa-mu-ên 11: 1-2). Các giao ước có thể được một quốc gia
với một quốc gia khác lập ra (Xuất Ê-díp-tô Ký 23:32, 34:12, 15, Ô-sê 12: 1).
Có những giao ước trong lãnh vực xã hội (Châm ngôn 2:17, Ma-la-chi 2:14). Một số
luật tự nhiên đã được xem như là các giao ước (Giê-rê-mi 33:20, 25).
Ngoại trừ những điều cuối cùng này, do Đức
Chúa Trời thiết lập, tất cả các cách sử dụng trên đều chi phối các mối quan hệ
giữa loài người. Hai giao ước được đề cập đến giữa Đức Chúa Trời và Nô-ê: Sáng
thế ký 6:18 và Sáng thế ký 9: 8-17. Rõ ràng điều nầy được gọi là giao ước, với
một nghĩa vụ nào đó đối với Nô-ê và một số lời hứa từ Chúa. Đây là một đoạn mở
đầu cho các giao ước của Kinh thánh, nơi lời hứa đóng một vai trò quan trọng.
Sau khi Chúa chọn Áp-ra-ham làm cha tuyển dân, và quốc gia Y-sơ-ra-ên, Kinh
Thánh có chứa đựng những tham chiếu đến tám điều khoản chính, tất cả đều do Đức
Chúa Trời lập ra với Áp-ra-ham và các con cháu của ông, bảy điều không có điều
kiện và một điều có điều kiện.
Một giao ước có thể được định nghĩa như
sau: Một giao ước thần thượng là (1) một sự bố trí tối thượng của Đức Chúa Trời,
nhờ đó Ngài thiết lập một khế ước không có điều kiện hay khai báo với con người,
bắt buộc Ngài, bằng ân sủng, bằng thể thức "TA SẼ", tự chính mình đem
đến những phước lành cho những người kết giao ước, hoặc (2) một đề nghị của Đức
Chúa Trời, trong đó Ngài hứa hẹn, trong một khế ước có điều kiện hoặc hỗ tương
với con người, bằng thể thức ngẫu nhiên 'NẾU NGƯƠI SẼ', để ban phước lành đặc
biệt cho con người nếu anh ta hoàn thành đầy đủ các điều kiện nhất định, và để
thực hiện một hình phạt nhất định trong trường hợp anh ta có lỗi lầm". Định
nghĩa này không tách rời khỏi định nghĩa thông thường và cách sử dụng từ ngữ
'giao ước' như một hợp đồng pháp lý mà trong đó một người bước vào và theo đó một
hành động được ràng buộc.
(Còn nữa)
CÁC GIAO ƯỚC VỚI Y-SƠ-RA-ÊN-2
- Miền đất, dân tộc và phước lành
Tất cả bắt đầu với việc kêu gọi ÁP-RA-HAM
trong Sáng thế ký 12: 1-3. Đây là giao ước căn bản mà Đức Chúa Trời đã lập với
tổ phụ của Y-sơ-ra-ên. Đó là nền tảng của tất cả các giao ước tiếp theo nữa. Tất
cả những giao ước khác là sự mở rộng của giao ước này. "Đức Giê-hô-va phán
với Áp-ram: “Hãy ra khỏi quê hương, bà con thân tộc và nhà cha của con để đi đến
vùng đất Ta sẽ chỉ cho con. Ta sẽ làm cho con thành một dân lớn, Ta sẽ ban phước
cho con, Làm rạng rỡ danh con, Và con sẽ thành một nguồn phước. Ta sẽ ban phước
cho người nào chúc phước con, Nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa con; Mọi dân trên đất
sẽ nhờ con mà được phước" (Sáng thế ký 12: 1-3). Bảy lần Đức Chúa Trời sử
dụng thể thức 'TA Sẽ', hoặc thể hiện hay hiểu biết. Ba yếu tố căn bản của Giao
ước Áp-ra-ham này là đất đai, một quốc gia / dân tộc và phước lành. Phước lành
cho chính Áp-ra-ham, cho Y-sơ-ra-ên, và qua Áp-ra-ham cho tất cả các quốc gia /
các dân tộc trên trái đất.
Đôi khi mọi người nghĩ đây chỉ là lời hứa
cho cá nhân Áp-ra-ham mà thôi, và không liên quan gì đến dân tộc / quốc gia của
Y-sơ-ra-ên. Họ tuyên bố: "Đức Chúa Trời phán rằng bất cứ ai chúc phước cho
Áp-ra-ham cách cá nhân trong cuộc đời của ông sẽ được ban phước, và ai nguyền rủa
Áp-ra-ham sẽ bị nguyền rủa. Nhưng điều đó không liên quan gì đến Y-sơ-ra-ên hay
người Do thái như vậy". So sánh Kinh thánh với Kinh Thánh, chúng ta đọc
trong Dân số ký 23: 8-10:" Người mà Đức Chúa Trời không nguyền rủa, tôi sẽ
nguyền rủa làm sao? Kẻ mà Đức Chúa Trời không tố cáo, tôi sẽ tố cáo thế
nào? Vì từ đỉnh núi tôi thấy Y-sơ-ra-ên,
Từ đỉnh cao, tôi nhìn họ: Kìa là một dân sống biệt riêng, Và không đồng hóa với
các nước. Ai đếm được bụi cát của Gia-cốp? Ai tính được chỉ một phần tư của
Y-sơ-ra-ên? Xin cho tôi được chết cái chết của người công chính; Xin cho tôi được
mãn phần giống như họ!”
Đây là Ba-la-am, một người được thuê mướn rủa
sả dân Y-sơ-ra-ên khi họ đang lang thang trên sa mạc, trên đường từ Ai cập tới
Đất Hứa. Từ đỉnh núi, ông nhìn họ. Và rồi ông ấy nói những gì ông ấy vừa nói.
Ông ta không thể nào nguyền rủa những người mà Đức Chúa Trời không nguyền rủa.
Sau đó, ông kết luận trong Dân số ký 24: 9: "họ nằm xuống co quắp người
như sư tử đực, và như sư tử cái ai dám đánh thức? Đáng chúc phước cho người nào
chúc phước ngươi, đáng nguyền rủa kẻ nào nguyền rủa ngươi". Vậy Ba-la-am
áp dụng lời hứa của Đức Chúa Trời ban phước hay nguyền rủa cho cả quốc gia /
dân tộc Y-sơ-ra-ên, không chỉ riêng với Áp-ra-ham cách cá nhân.
- Chúa đã khẳng định Giao ước Áp-ra-ham với Y-sác
Sáng thế ký 17: 7-8: "Ta sẽ lập giao ước cùng ngươi, và cùng hậu tự
ngươi trải qua các đời; ấy là giao ước đời đời, hầu cho Ta làm Đức Chúa Trời của
ngươi và của dòng dõi ngươi.(d) Ta sẽ
cho ngươi cùng dòng dõi ngươi xứ mà ngươi đương kiều ngụ, tức toàn xứ Ca-na-an,
làm cơ nghiệp đời đời.Vậy, ta sẽ làm Đức Chúa Trời của họ".
Sáng Thế Ký 22: 15-18:
"Thiên sứ của Đức Giê-hô-va từ trên trời kêu Áp-ra-ham lần thứ nhì mà rằng:
Đức Giê-hô-va phán rằng: Vì ngươi đã làm
điều đó,không tiếc con ngươi, tức con một ngươi thì Ta lấy chánh mình Ta mà thề
rằng sẽ ban phước cho ngươi, thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời,đông
như cát bờ biển, và dòng dõi đó sẽ chiếm được cửa thành quân nghịch. Bởi vì
ngươi đã vâng theo lời dặn Ta, nên các dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi
mà được phước".
Sáng thế ký 26: 1-5, 23-24: "Trừ cơn
đói kém thứ nhứt trong đời Áp-ra-ham, bấy giờ tại xứ lại có một lần nữa. Y-sác
bèn đi đến A-bi-mê-léc,vua Phi-li-tin, tại Ghê-ra. Đức Giê-hô-va hiện đến cùng
người và phán rằng: Chớ xuống xứ Ê-díp-tô; hãy ở lại xứ mà ta sẽ chỉ cho. Hãy
ngụ trong xứ nầy, Ta sẽ ở cùng ngươi và ban phước cho ngươi; vì Ta sẽ cho ngươi
cùng dòng dõi ngươi các xứ nầy và Ta sẽ làm thành lời Ta đã thề cùng Áp-ra-ham,
cha ngươi. Ta sẽ thêm dòng dõi ngươi nhiều như sao trên trời, sẽ cho họ các xứ
nầy; hết thảy dân thế gian đều sẽ nhờ dòng dõi ngươi mà được phước; vì
Áp-ra-ham đã vâng lời Ta và đã giữ điều Ta phán dạy, lịnh, luật và lệ của ta.
Y-sác ở đó đi, dời lên Bê-e-Sê-ba. Đêm đó Đức Giê-hô-va hiện đến cùng người và
phán rằng: Ta là Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham,cha ngươi; chớ sợ chi, Ta ở cùng
ngươi, sẽ ban phước cho và thêm dòng dõi ngươi, vì cớ Áp-ra-ham là tôi tớ Ta".
Chúa đã khẳng định Giao ước Áp-ra-ham với
GIA-CỐP- Sáng thế ký 28: 3-4, 13-15: "Cầu xin Đức Chúa Trời Toàn Năng ban
phước cho con (Y-sác nói với Gia-cốp), làm cho dòng dõi con sinh sôi nẩy nở thật
nhiều và trở thành một cộng đồng các dân tộc. Cầu xin Ngài ban cho con và dòng
dõi con phước lành của Áp-ra-ham để con sở hữu miền đất mà con đang cư ngụ, tức
là miền đất mà Đức Chúa Trời đã ban cho Áp-ra-ham!” Ở trên đó (đầu cầu thang mà
Gia-cốp nhìn thấy trong giấc mộng của ông ở Bê-tên) "Kìa, Đức Giê-hô-va đứng
trước mặt ông và phán: “Ta là Giê-hô-va Đức Chúa Trời của Áp-ra-ham, tổ phụ
con, cũng là Đức Chúa Trời của Y-sác. Ta sẽ ban cho con và dòng dõi con đất mà
con đang nằm ngủ. Dòng dõi con sẽ đông như cát bụi trên đất, lan tràn khắp đông
tây nam bắc, và mọi gia tộc trên đất sẽ nhờ con và dòng dõi con mà được phước.
Nầy, Ta ở với con, con đi đâu, Ta sẽ theo gìn giữ đó, và đem con trở về xứ nầy.
Ta không bao giờ bỏ con cho đến khi Ta hoàn tất những điều Ta đã hứa với con” .
Sáng thế ký 35: 9-13: "Khi Gia-cốp từ Pha-đan A-ram về, Đức Chúa Trời
lại hiện ra với Gia-cốp và ban phước cho ông. Đức Chúa Trời phán: “Tên con là
Gia-cốp, nhưng con sẽ không được gọi là Gia-cốp nữa mà tên con sẽ là
Y-sơ-ra-ên.” Rồi Ngài đặt tên cho ông là Y-sơ-ra-ên. Đức Chúa Trời lại phán với
ông: “Ta là Đức Chúa Trời Toàn Năng; hãy sinh sản và gia tăng gấp bội. Một dân
tộc rồi một cộng đồng nhiều dân tộc sẽ ra từ con, và các vua chúa sẽ từ dòng
dõi con mà ra. Vùng đất Ta đã ban cho Áp-ra-ham và Y-sác thì Ta cũng sẽ ban cho
con và dòng dõi con.” Rồi Đức Chúa Trời ngự lên từ chỗ Ngài đã phán với Gia-cốp".
Do đó Kinh Thánh gọi Ngài là Đức Chúa Trời
của Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp. Đó là một trong những Danh của Ngài. Dòng dỏi
của Ích-ma-ên (cũng là con của Áp-ra-ham) và Ê-sau (anh em sinh đôi của Gia-cốp)
bị cắt đứt khỏi dòng của Giao ước Áp-ra-ham, mặc dù chắc chắn có những phước
lành lớn lao trong Kinh Thánh dành cho Ích-ma-ên và các con cháu của ông. Nhưng
Giao ước thì lập với Y-sác và Gia-cốp. Và đường hướng giao ước tiếp tục theo
sau Gia-cốp qua 12 con trai = 12 bộ tộc của Gia-cốp: Y-sơ-ra-ên (Sáng thế ký
49).
--Có điều kiện và không điều kiện
Các giao ước vô điều kiện là những điều mà
Đức Chúa Trời hứa sẽ làm những việc nhất định, bất kể điều gì. Những gì Ngài sẽ
làm không phụ thuộc vào hành vi của (các) đối tác khác trong các giao ước này.
Đức Chúa Trời chỉ đơn giản tuyên bố rằng đây là những gì Ngài sẽ làm, vì cớ
Ngài đã đưa ra quyết định này vì những lý do của chính Ngài.
Trong các giao ước có điều kiện, Chúa hứa sẽ
chỉ làm điều gì đó khi nào (những) đối tác kia giữ được bên giao ước hoặc hợp đồng
của họ, đáp ứng và thực hiện các bổn phận của họ.
Để bảo vệ suy nghĩ về điểm nầy này, cần phải
quan sát thấy rằng một giao ước vô điều kiện, ràng buộc người lập giao ước với
một loạt hành động nào đó, có thể có những phước lành gắn liền với điều đó, là
điều kiện tùy thuộc vào đáp ứng của người nhận giao ước. Nhưng những ơn phước
có điều kiện này không làm thay đổi tính chất vô điều kiện của giao ước đó. Việc
không tuân theo một giao ước vô điều kiện có thể có một số phước lành có điều
kiện gắn liền với nó đã khiến nhiều người đến tới vị trí mà các phước lành có
điều kiện đòi hỏi phải có một giao ước có điều kiện, do đó phá hoại tính chất
thiết yếu của các giao ước có tính quyết định của Y-sơ-ra-ên.
Ý của tôi là: một giao ước vô điều kiện do
Đức Chúa Trời lập ra có thể có những phước lành có điều kiện gắn liền với nó.
Nhưng ngay cả khi bên kia (con người) không đáp ứng các điều kiện này- và kết
quả sẽ không nhận được các phước lành gắn liền với nó - điều này không làm thay
đổi tính chất vô điều kiện của giao ước như vậy. Y-sơ-ra-ên đã nhiều lần không
đáp ứng được những mong đợi của Đức Chúa Trời - và do đó thất bại trong việc có
được những phước lành nhất định. Nhưng điều này không có nghĩa là Đức Chúa Trời
thay đổi ý định của mình và có thể bội giao ước. Ngài sẽ luôn luôn làm chính
xác như Ngài đã hứa.
- Bảy giao ước vô điều kiện
1. Giao ước Áp-ra-ham -Sáng thế
ký 12: 1-3
2. Giao ước về Đất Hứa, hoặc Giao
ước về Đất đai Y-sơ-ra-ên, hoặc Giao ước về đất Ca-na-an-
Sáng thế ký 12: 1, 13: 14-17, 15:
18-21, Phục truyền Luật lệ Ký 30: 1-10, Thi Thiên 105: 7-11
3. Giao ước Lê-vi-
Dân số ký 25: 10-13, Nê-he-mi
13:29, Giê-rê-mi 33: 19-23, Ma-la-chi 2: 1-9
4. Giao ước Đa-vít-
2 Sa-mu-ên 7: 10-16, Thi-thiên
89, Ê-xê-chi-ên 37: 24-25
5. Giao ước mới - Giê-rê-mi 31:
31-34
6. Giao ước Giêrusalem -
Ê-xê-chi-ên 16
7. Công ước Hòa bình -
Ê-xê-chi-ên 37: 20-28
--Một Giao ước có điều kiện
8. Giao ước của Luật pháp, Giao ước
Si-nai, Giao ước Môi-se, Giao ước 'Cũ'
Xuất Ê-díp-tô Ký 19: 5, 20: 1-17,
Phục-truyền luật-lệ Ký 5
Phục truyền 28: 1-68, các câu 1-14 có thể
thức 'NẾU các ngươi sẽ làm việc này' thì 'Ta sẽ ban phước'; Câu 15-68: 'Nếu các
ngươi không làm điều này', thì 'Ta sẽ nguyền rủa'. Người ta phải đáp ứng các
đòi hỏi nhất định để có được những phước lành của Giao ước Luật pháp. Giao ước
này được đổi mới trên đồng bằng Mô-áp (Phục truyền 29: 1-15), tại Núi Ê-banh và
Ga-ri-xim (Giô-suê 8: 30-35) và tại Si-chem (Giô-suê 24). Giao ước của Luật pháp này là Giao ước
'Cũ'. Phao-lô bàn về sự khác biệt giữa Giao Ước 'Cũ và 'Mới' trong thơ
Hê-bơ-rơ. Sau khi giải thích vẻ đẹp của Giao Ước Mới, ông kết luận trong
Hê-bơ-rơ 8:13: "Đã gọi là giao ước mới thì Ngài đã kể giao ước trước là
cũ; điều gì lỗi thời, cũ kỹ chẳng bao lâu sẽ tiêu mất đi".
- Bất diệt
Các giao ước được hiểu theo nghĩa đen, như một hợp đồng giữa hai bên. Và
các Giao ước này thì vĩnh cửu, bất diệt, và được lập nên với Y-sơ-ra-ên, vì vậy
sẽ tồn tại 'mãi mãi'. Do đó, các giao ước này đã được đặt trong vị trí đời đời.
Đức Chúa Trời không thể thay đổi ý định của Ngài về chúng.
- Giao ước Áp-ra-ham
Sáng thế ký 17: 7, 13, 19:
"Ta sẽ lập giao ước với con và với dòng dõi con từ thế hệ nầy qua thế hệ
khác; vì đây là giao ước đời đời để Ta làm Đức Chúa Trời của con và của dòng
dõi con. Cả người được sinh ra trong nhà lẫn người được mua về bằng tiền đều buộc
phải cắt bì. Như thế, giao ước của Ta trên thân thể các con là giao ước ĐỜI ĐỜI".
Đức Chúa Trời phán: “Không phải vậy đâu, Sa-ra, vợ của con sẽ sinh cho con một
trai, và con sẽ đặt tên nó là Y-sác. Ta sẽ lập giao ước với nó, là giao ước ĐỜI
ĐỜI cho dòng dõi nó".
--Đất của Y-sơ-ra-ên / Giao Ước Ca-na-an
1 Sử Ký 16: 17-18: Ngài "đã
định cho Gia-cốp làm luật lệ, Và cho Y-sơ-ra-ên làm giao ước ĐỜI ĐỜI, Khi Ngài
phán rằng: “Ta sẽ ban cho con đất Ca-na-an, Làm phần sản nghiệp" (So sánh:
Thi Thiên 105: 10).
- Giao ước Lê-vi
Dân số ký 25: 10-13: "Đức Giê-hô-va
phán với Môi-se: “Phi-nê-a, con trai Ê-lê-a-sa, cháu thầy tế lễ A-rôn, đã làm
nguôi cơn giận Ta đối với dân Y-sơ-ra-ên, vì giữa họ, người mang lòng sốt sắng
của Ta chống lại tội tà dâm; nhờ đó, Ta không tiêu diệt dân Y-sơ-ra-ên trong
cơn kỵ tà (ghen tương). Vì thế, hãy bảo với người rằng: ‘Ta lập giao ước bình
an với người. Người và dòng dõi người sẽ nhận được giao ước về chức tế lễ ĐỜI ĐỜI,
vì người có lòng sốt sắng về Đức Chúa Trời mình và đã chuộc tội cho dân
Y-sơ-ra-ên.’
Giê-rê-mi 33: 19-23: "Lại có lời Đức
Giê-hô-va phán với Giê-rê-mi: “Đức Giê-hô-va phán thế nầy: ‘Nếu các ngươi có thể
phá vỡ giao ước của Ta với ngày và giao ước của Ta với đêm, đến nỗi ngày và đêm
không đến đúng kỳ của nó, thì giao ước giữa Ta với Đa-vít, đầy tớ Ta, mới bị
phá vỡ, tức là không có con cháu người trị vì trên ngai nữa, và giao ước giữa
Ta với các thầy tế lễ dòng Lê-vi, những đầy tớ Ta, cũng vậy. Không ai có thể đếm
được các tinh tú trên trời và lường hết cát dưới biển; Ta cũng sẽ làm cho con
cháu Đa-vít, đầy tớ ta, và con cháu Lê-vi, kẻ phục vụ Ta, đông nhiều như vậy."
(So sánh Ma-la-chi 2: 1-9).
- Giao ước Đa-vít
2 Sa-mu-ên 23: 5: "Nhà ta chẳng
như thế trước mặt Đức Chúa Trời sao? Vì Ngài đã lập với ta một giao ước ĐỜI ĐỜI,
Tất cả điều khoản đã được sắp xếp và giữ gìn... đó sao" -(1Sử Ký 17:
11-14) "Rồi khi con được mãn phần để trở về cùng tổ phụ mình, hẳn Ta sẽ lập
dòng dõi con, là một trong số các con trai của con, lên kế vị con; Ta sẽ làm
cho vương quốc nó vững chắc. Chính nó sẽ xây cất cho Ta một đền thờ, và Ta sẽ
làm cho ngôi nước nó vững bền đến ĐỜI ĐỜI.
Ta sẽ làm cha nó, nó sẽ làm con Ta; sự nhân từ Ta sẽ chẳng cất khỏi nó
như Ta đã cất khỏi kẻ tiền nhiệm con. Ta
sẽ lập nó đời đời trong nhà Ta và trong vương quốc Ta; ngôi nước nó sẽ được vững
lập MÃI MÃI" (So sánh: Thi-thiên 89: 19-29, Êsai 55: 3, Ê-xê-chi-ên 37:
24-25).
--Giao ước mới
Giê-rê-mi 31: 31-34: "Đức Giê-hô-va phán: “Nầy, những ngày đến, Ta
sẽ lập một giao ước mới với nhà Y-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa. Giao ước nầy sẽ không giống giao ước mà Ta đã
lập với tổ phụ chúng trong ngày Ta nắm tay dắt chúng ra khỏi Ai Cập, là giao ước
mà chúng đã phá vỡ, dù Ta là Chồng của chúng”, Đức Giê-hô-va phán vậy. Đức
Giê-hô-va phán: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày
đó. Ta sẽ đặt luật pháp Ta vào lòng dạ chúng và khắc ghi lên tâm khảm chúng. Ta
sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng và chúng sẽ làm dân Ta. Chúng sẽ không còn phải
dạy bảo người lân cận hay anh em mình rằng: ‘Hãy nhận biết Đức Giê-hô-va!’, vì
tất cả đều sẽ biết Ta, từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất,”Đức Giê-hô-va
phán: “Vì Ta sẽ tha thứ gian ác chúng và không nhớ đến tội lỗi chúng nữa.” (So
sánh Êsai 61: 7-9, Giê-rê-mi 50: 5, Hê-bơ-rơ 13:20).
Giê-rê-mi 32: 37-41: "Nầy,Ta sẽ tập hợp
chúng từ mọi nước mà Ta đã đuổi chúng đến trong cơn bực tức, giận dữ và thịnh nộ.
Ta sẽ đem chúng trở về nơi nầy và cho chúng an cư lạc nghiệp. Chúng sẽ làm dân
Ta, và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng. Ta sẽ ban cho chúng cùng một tấm
lòng, cùng một đường lối để chúng kính sợ Ta TRỌN ĐỜI, nhờ đó chính chúng và
dòng dõi con cháu chúng đều được phước.
Ta sẽ lập với chúng một giao ước ĐỜI ĐỜI: Ta sẽ không lìa bỏ chúng và
không ngừng ban phước cho chúng. Ta sẽ đặt sự kính sợ Ta vào lòng chúng để
chúng không lìa bỏ Ta nữa. Ta sẽ lấy làm vui mà ban phước cho chúng, hết lòng hết
sức mà trồng chúng bền vững trong đất nầy".
Chúng ta đọc rất nhiều về tấm lòng và tâm hồn
(tội lỗi) của con người trong Kinh thánh, nhưng điều này như tôi biết là nơi
duy nhất trong Kinh thánh nói về tấm lòng và tâm hồn của Đức Chúa Trời. Vì vậy,
Đức Chúa Trời hết sức vui mừng khi đưa người Do Thái trở về Đất Hứa!
- Giao ước Giê-ru-sa-lem
Ê-xê-chi-ên 16: 59-60, 62:
"Vì Chúa Giê-hô-va phán rằng: “Ngươi đã khinh thường lời thề mà phá hủy
giao ước Ta, nên Ta sẽ đối xử với ngươi xứng với điều ngươi đã làm. Tuy nhiên,
Ta sẽ nhớ lại giao ước mà chính Ta đã lập với ngươi trong những ngày ngươi còn
trẻ, và Ta sẽ lập với ngươi một giao ước ĐỜI ĐỜI. Ta sẽ lập giao ước Ta với
ngươi, và ngươi sẽ biết Ta là Đức Giê-hô-va."--Vào đầu chương, Chúa nói với
Giê-ru-sa-lem, nhưng Ngài không đơn giản nói với gạch, vữa và đá Giê-ru-sa-lem.
Ngài nói chung cho 'Si-ôn' - thành phố, vùng đất và dân chúng.
Sự hiệp nhất theo theo sự xếp đặt thần thượng.
"Giao ước hôn nhân" nầy với Giê-ru-sa-lem bao gồm hầu hết các giao ước
khác; Giao ước Áp-ra-ham, Giao ước Luật pháp, Giao ước về Đất đai, Giao ước
Đa-vít và cuối cùng là Giao ước mới. Êsai 4: 2-5: "Trong ngày đó, chồi của
Đức Giê-hô-va sẽ đẹp đẽ và vinh quang; hoa quả của đất là niềm hãnh diện và
vinh dự của những người Y-sơ-ra-ên còn sống sót. Những người còn lại ở Si-ôn, những người còn
sót lại ở Giê-ru-sa-lem sẽ được gọi là thánh. Tất cả được ghi vào sổ những người
sống tại Giê-ru-sa-lem. Khi Chúa dùng thần
công lý và thần thiêu đốt để tẩy rửa sự ô uế của các con gái Si-ôn, và tẩy sạch
máu của Giê-ru-sa-lem khỏi giữa nó, thì
trên khắp núi Si-ôn và trên hội chúng, Đức Giê-hô-va sẽ tạo ra một đám mây vào
ban ngày, khói và lửa rực sáng vào ban đêm. Vì sẽ có một cái vòm che trên mọi
vinh quang".
Sự vinh hiển Shekinah của Chúa ở trong đền
thờ được vua Sa-lô-môn xây dựng (2 Sử ký 7: 1-2); Ê-xê-chi-ên nhìn thấy sự vinh
hiển Shekinah của Chúa rời khỏi Đền thờ ít lâu trước khi người Ba-by-lôn phá hủy
nó (Ê-xê-chi-ên 10: 3-5, 11: 22-23), và nó sẽ trở lại đền thờ như là sự trở lại
sự hiện diện thường xuyên của Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên, xảy
ra, để ở giữa dân giao ước cũ của Ngài (Ê-xê-chi-ên 43: 1-2, 4-7a). Sách Khải
Huyền cho chúng ta biết rằng triều đại của Đấng Mê-si-a ở Giê-ru-sa-lem sẽ kéo
dài một ngàn năm. Là nơi duy nhất trong Kinh thánh (Khải huyền 20: 4-5), khi một
giới hạn thời gian được đặt vào thời đại của Đấng Mê-si-a trên trái đất, dường
như trái ngược với hầu hết các lời tiên tri trong Kinh thánh liên quan đến
Vương Quốc Đấng Mê-si-a, mà lời đó nhấn mạnh với chúng ta rằng đó sẽ là một
vương quốc đời đời. Nhưng nó sẽ như thế. Chỉ có kịch bản của Vương quốc Đấng
Mê-si-a sẽ được chuyển từ hồi này sang hồi khác.Từ vinh quang đến vinh quang.
Giao Ước Giê-ru-sa-lem đi xa hơn khi liên
kết thành phố trên đất với thành phố trên trời, Êsai 65: 17-19 và Khải huyền
21. Êsai đã nói với chúng ta ở đây rằng trong Giê-ru-sa-lem Mới sẽ không có kỷ
niệm về sự kinh dị xung quanh hay liên quan đến thành phố và thế giới trước kia
mà nó đã tồn tại, Êsai 65:17: "Những việc trước kia sẽ không còn được nhớ
đến, Không còn nhắc đến trong tâm trí nữa". Các tầng trời mới và trái đất
mới sẽ trở thành nơi ở của vương quốc Đấng Mê-si-a vĩnh cửu . Cũng như Giao ước
Áp-ra-ham đã hứa với đất Y-sơ-ra-ên và Giê-ru-sa-lem trên đất như là cơ nghiệp
cho tất cả mọi người Do Thái mọi lúc, cho dù họ đang sống trong miền đất hoặc ở
Diaspora, Tân Ước hứa hẹn Giê-ru-sa-lem trên trời như là phần cơ nghiệp vĩnh hằng
cho những người đó mà tên tuổi đã được viết trong Sách Sự Sống của Chiên Con,
Hê-bơ-rơ 12: 22-24 và 13:14. Điều đó có nghĩa là tất cả những ai tham gia Giao
Ước Mới, cho dù họ là người Do Thái hay người ngoại bang.
--Giao ước Hòa bình
Ê-xê-chi-ên 37: 21-28: "Chúa
Giê-hô-va phán: ‘Nầy, Ta sẽ đem con cái Y-sơ-ra-ên ra khỏi các nước mà họ đã đi
đến. Ta sẽ nhóm họ lại từ bốn phương và đem họ về trong đất riêng của họ. Ta sẽ
làm cho họ thành một nước trong đất ấy trên các núi của Y-sơ-ra-ên, và chỉ có một
vua sẽ cai trị họ. Họ sẽ không còn là hai nước và không bị chia thành hai vương
quốc nữa. Họ sẽ không tự làm ô uế bởi các thần tượng nữa, hoặc bởi những vật
đáng kinh tởm, hoặc bởi mọi vi phạm của mình. Ta sẽ giải cứu họ khỏi mọi nơi mà
họ đã phạm tội. Ta sẽ tẩy sạch họ; họ sẽ làm dân Ta và Ta sẽ làm Đức Chúa Trời
của họ".
"Đầy tớ Ta là Đa-vít sẽ làm
vua trên họ và tất cả sẽ chỉ có một người chăn mà thôi. Họ sẽ bước theo các mệnh
lệnh của Ta; họ sẽ gìn giữ các luật lệ của Ta và làm theo. Họ sẽ ở trong đất mà Ta đã ban cho đầy tớ Ta
là Gia-cốp, và là đất mà tổ phụ các ngươi đã ở. Họ, con cái họ và các thế hệ tiếp
nối của họ sẽ ở đó cho đến đời đời. Đầy tớ Ta là Đa-vít sẽ làm vua của họ mãi
mãi. Ta sẽ lập với họ một giao ước hòa
bình, tức là giao ước đời đời giữa họ với Ta. Ta sẽ thiết lập và làm cho dân số
họ gia tăng. Ta sẽ dựng đền thánh Ta giữa họ đời đời. Ta sẽ ngự ở giữa họ; Ta sẽ làm Đức Chúa Trời
của họ và họ sẽ làm dân Ta. Bấy giờ, các
nước sẽ biết Ta, Đức Giê-hô-va, đã làm cho dân Y-sơ-ra-ên ra thánh vì đền thánh
Ta sẽ ở giữa họ đời đời’.
- Một Giao ước mới
Những giao ước đã thực sự được lập
ra với ai? Chúng ta chỉ nói: với Y-sơ-ra-ên. Nhưng trong nhiều thế kỷ- và thậm
chí vẫn còn ngày hôm nay- Hội thánh đã dạy cách khác. Hội thánh nói: Kinh thánh
có hai phần- Cựu Ước và Tân Ước. Hoặc: Giao ước cũ và Giao ước Mới. Chúng ta đã
được dạy trong thần học Cơ Đốc rằng Cựu Di Chúc / giao ước cũ đã được lập với
Y- sơ- ra- ên và rằng Di Chú mới/ giao ước mới được lập với hội thánh. Vậy thì
điều đáng lưu ý là Phao-lô, nói về Y-sơ-ra-ên, các anh em của ông theo xác thịt,
và tóm tắt tất cả những phước lành của họ, nói rằng những giao ước đều thuộc về
họ (Rô-ma 9: 4), số nhiều! Không chỉ có giao ước (cũ), mà còn các giao ước, số
nhiều, cho thấy cả Cựu Ước lẫn Giao Ước Mới, và các giao ước khác nữa!
Vị sứ đồ lấy ý tưởng này ở đâu? Ông lấy từ
Giê-rê-mi 31: 31-34, nơi mà vị tiên tri nói: " Chúa tuyên bố: Nầy, những
ngày đến, Ta sẽ lập một giao ước mới "- [với ai? Với Hội thánh? Không] nhà
Y-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa. Thời gian đến, 'Chúa tuyên bố,' khi Ta sẽ lập một
giao ước mới [với ai? Với Hội thánh? với nhà Y-sơ-ra-ên và với nhà Giu-đa. Giao ước nầy sẽ không giống giao ước mà Ta đã
lập với tổ phụ chúng trong ngày Ta nắm tay dắt chúng ra khỏi Ai Cập, là giao ước
mà chúng đã phá vỡ, dù Ta là Chồng của chúng, Đức Giê-hô-va phán vậy". 'Đức
Giê-hô-va phán: “Đây là giao ước Ta sẽ lập với nhà Y-sơ-ra-ên sau những ngày
đó. Ta sẽ đặt luật pháp Ta vào lòng dạ chúng và khắc ghi lên tâm khảm chúng. Ta
sẽ làm Đức Chúa Trời của chúng và chúng sẽ làm dân Ta. Chúng sẽ không còn phải dạy bảo người lân cận
hay anh em mình rằng: ‘Hãy nhận biết Đức Giê-hô-va!’, vì tất cả đều sẽ biết Ta,
từ người nhỏ nhất đến người lớn nhất,”Đức Giê-hô-va phán: “Vì Ta sẽ tha thứ
gian ác chúng và không nhớ đến tội lỗi chúng nữa”.
- Giao ước mới sẽ được lập với Y-sơ-ra-ên và Giu-đa!
Nhưng khi nào Giao Ước Mới này được lập với
nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa? Hay nó vẫn phải được lập với dân Do Thái, như một
số người nghĩ? Khúc nhạc của tương lai phải không? Chúng ta hãy nhìn vào những
lời của chính Chúa Jêsus trong Bữa Tiệc thánh: "Rồi Ngài (Chúa Jesus) lấy
bánh, tạ ơn, bẻ ra, phân phát cho các môn đồ và phán: “Nầy là thân thể Ta vì
các con mà phó cho. Hãy làm điều nầy để nhớ đến Ta.”- " Khi ăn xong, Ngài
cũng làm như vậy, lấy chén trao cho các môn đồ và phán: “Chén nầy là giao ước mới
trong huyết Ta vì các con mà đổ ra". Chén này là gì? Giao ước mới trong huyết của
Ta, mà được đổ ra cho các con" (Luca 22: 19-20). Ở đây, chúng ta thấy Chúa
Jêsus, một người Do-thái có thịt và máu, được các môn đệ Do-thái bao quanh,
cùng ngồi với nhau trong một bữa ăn của người Do thái - Pesach- nhớ sự Xuất
hành ra khỏi Ai-cập. Ở đây chúng ta nghe Chúa Jêsus nói rằng thân thể bị vỡ ra
của Ngài và huyết tràn đổ của Ngài là "các dấu hiệu của Giao Ước Mới".
Ở đây, Giao Ước mới được lập với nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa! Lập lại lần nữa
cho nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa! Tại thời điểm này không có người ngoại bang nào
ngồi tham dự. Chỉ có người Do Thái ngồi quanh bàn mà thôi.
Có phải chỉ là việc tình cờ khi Chúa Jêsus
là người Do Thái không? Liệu Chúa Jêsus có thể là người Mỹ, hay người Hà Lan,
hay người Hoa, hay ...chăng? Liệu có cần thiết cho Ngài trở thành xác thịt như
một con người không? Không, Đấng Cứu Thế của thế giới phải là người Do Thái.
Ga-la-ti 4: 4 nói: "Nhưng khi kỳ hạn đã được trọn, Đức Chúa Trời sai Con
Ngài đến, do một người nữ sinh ra, sinh ra dưới luật pháp (Torah), để chuộc những
người ở dưới luật pháp (Torah). Đấng Cứu Rỗi phải giữ Giao Ước Luật Pháp - đã lập
với Y-sơ-ra-ên trong sa mạc Si-nai với Môi-se làm trung gian hòa giải giữa Đức
Chúa Trời và Y-sơ-ra-ên một cách trọn vẹn, để Ngài có thể là Chiên Con không tì
vết, không chỗ chê trách, có thể chịu chết vì tội lỗi của thế gian.
Chúa Jêsus thực sự đã làm hai việc thay chỗ
của chúng ta. Thứ nhất, Chúa Jêsus giữ luật pháp thay chỗ của chúng ta. Vì vậy,
Ngài phải được sinh ra ở dưới và trong Giao Ước của Luật Pháp, là Giao ước mà Đức
Chúa Trời đã lập với Y-sơ-ra-ên. Vì không thể phá bỏ luật lệ thánh khiết của Đức
Chúa Trời. Luật pháp phải được gìn giữ, phải được hoàn thành. Ân sủng của Đức
Chúa Trời không thể được cung cấp nếu đức thánh khiết của Ngài không được thỏa
đáng. Vì vậy, Chúa Jêsus phải là người Do thái và phải giữ luật pháp. Thứ hai,
do đó Ngài có thể chết thay chỗ chúng ta. Chúng ta đáng bị hình phạt chết đời đời
vì tội lỗi của chúng ta, nhưng Ngài đã tiếp lấy hình phạt đó trên chính mình Ngài
để chúng ta có thể được tự do và có sự sống đời đời. Cảm ơn Ngài, Chúa ơi!
Và bây giờ ở đây Ngài đứng lên, Chúa Jêsus
là người Do Thái, cùng các bạn Do Thái của Ngài đang ngồi quanh bàn, ăn mừng một
bữa ăn của người Do Thái trong một bữa tiệc Do Thái rất kỳ lạ: Pesach
- Lễ Vượt Qua. Điều quan trọng cần
lưu ý là mọi thứ đến thời điểm này trong lịch sử là một sự việc hoàn toàn thuộc
về dân Do Thái. Không có một người Ngoại bang nào trước mắt. Vào lúc này, Ngài
đang thiết lập Giao Ước Mới với Y-sơ-ra-ên; Thân thể bị bầm dập của Ngài và huyết
Ngài đổ ra là dấu hiệu của Giao Ước Mới, nói về sự cứu chuộc và sự tha thứ những
tội lỗi của thế gian, những tội lỗi của người Do Thái và những người không phải
Do Thái. Sau đó, vào ngày Lễ Ngũ Tuần, chỉ có người Do Thái và người tân tòng
(những người Do Thái ngoài dân Do Thái đã hoán cãi sang Do thái giáo và do đó
đã trở thành người Do Thái) đã có mặt tại Giê-ru-sa-lem khi Đức Thánh Linh được
đổ ra (Công vụ 2:11). Giống như Bữa Tiệc thánh, Lễ Ngũ Tuần là một sự việc hoàn
toàn của người Do Thái. Khi nào người ngoại bang đến? Chúng ta phải đợi đến
Công vụ 10! Rồi viên đội trưởng ngoại bang, người La mã, Cọt-nây, gây sự kinh
ngạc tuyệt đối cho những tín đồ cắt bì và thậm chí cho Phi-e-rơ, khi họ thấy Đức
Thánh Linh đã đổ ra trên người ngoại đạo (Công. 10:44-47)..Trên người ngoại
bang! Những người ngoài Do thái! Từ lúc đó trở đi, những người ngoài dân
Do-thái đã được thêm vào những người đã được cứu. Chúng tôi sẽ diễn giảng về điều
nầy kỹ càng hơn sau đây.
--Được Ghép vào
Nhiều năm sau, Phao-lô bắt đầu hiểu
ra những gì đã xảy ra ở đó, tại nhà của Cọt-nây, và từ đó mọi nơi giữa vòng những
người ngoại bang nơi nào mà Phúc Âm được rao giảng và dân chúng tiếp nhận Chúa
Jêsus làm Chúa và Đấng Cứu Rỗi của họ. Những người này giống như những nhánh mới
được ghép vào gốc rễ cũ (Rô-ma 11:24), vào Giao Ước Mới với Y-sơ-ra-ên. Được cắt
khỏi gốc rễ ngoại bang của họ, và ghép vào gốc rễ mới. Thật sẽ có một sự khác
biệt lạ lùng đó xảy ra nếu Rô-ma 11 đã được đọc và rao giảng cách cẩn thận trong
hội thánh.
Chúng ta đã được ghép vào. Chúng ta không
phải là cốt lõi, hay là cái nhân, họ là cái nhân. Họ không phải đến với chúng
ta, với Hội thánh; Đức Chúa Trời trong ân điển của Ngài đã thêm chúng ta vào họ,
vào Giao Ước Mới của họ. Đã được ghép vào. Hãy cẩn thận, Phao-lô cảnh báo những
tín đồ Cơ Đốc ngoại bang, các bạn không chịu đựng gốc rễ, nhưng gốc rễ chịu đựng
các bạn (Rô-ma 11:18). Bằng ân sủng của Đức Chúa Trời, bạn là người ngoại bang
được phép chia sẻ trong Giao Ước Mới của họ. Không tuyệt vời sao? Đức Chúa Trời
cũng là Đức Chúa Trời lập Giao Ước của chúng ta nữa! Chúng ta là tín đồ người
ngoại bang được tháp ghép vào Giao Ước Mới với Đức Chúa Trời của Y-sơ-ra-ên.
Ngài sẽ thành tín, bất chấp sự bất trung của chúng ta. Ngài là Đức Chúa Trời chọn
lựa. Nếu Ngài có thể thành tín với một dân Y-sơ-ra-ên không vâng lời và giữ các
lời hứa của Ngài với họ, Ngài có thể và cũng sẽ thành tìn với hội thánh rất thường
xuyên không vâng lời Ngài và giữ những lời hứa của Ngài dành cho họ. Có hy vọng
cho bạn và tôi! Mặc dù chúng ta không trung tín và bất tuân, Ngài sẽ nhìn chúng
ta trong Chúa Jêsus.
Một ngày nào đó trong tương lai, Đức Chúa
Trời sẽ làm điều này cho cả Y-sơ-ra-ên nữa. Ngài đã sử dụng tiên tri Giê-rê-mi
tuyên bố rằng Giao Ước mới sẽ vì nhà Y-sơ-ra-ên và nhà Giu-đa. Phao-lô sáng tỏ rằng
một khi công việc ân điển của Đức Chúa Trời giữa vòng các dân ngoại đã được
hoàn thành, Ngài sẽ cứu "cả Y-sơ-ra-ên." Sau đó, Đấng Giải cứu sẽ đến
từ Si-ôn, và Ngài sẽ cất sự bất kỉnh khỏi Gia-cốp và cất đi những tội lỗi của họ
(Rô-ma 11:25 -27). Phao-lô nói với chúng ta: vì vậy, hỡi người ngoại bang, hãy
vui vẻ, trải một thời gian, Đức Chúa Trời
đã loại những người Do Thái của Ngài ra ("những nhánh bị cắt bỏ")
(Rô-ma 11: 19-20) để bạn có thể ghép vào. Nhưng Ngài sẽ tiếp tục ở với
Y-sơ-ra-ên, Ngài sẽ hàn gắn lại những cành cây thiên nhiên, bị hư nát vào cây
ô-li-ve, vì Ngài thành tín với chính Ngài và với các giao ước của Ngài. Nếu Đức
Chúa Trời không giữ các lời hứa và giao ước mà Ngài đã lập với Y-sơ-ra-ên và
dân Do Thái, làm sao chúng ta có thể chắc chắn rằng Ngài sẽ giữ lời hứa Ngài đã
ban cho chúng ta?
Hội thánh Cơ Đốc, và cộng đồng Cơ-Đốc,
không được kiêu ngạo, nhưng hãy sợ sệt! Hãy kinh ngạc trước ân sủng của Đức
Chúa Trời đối với bạn. Lưu ý rằng Ngài sẽ nhớ ân điển của Ngài và sẽ không bao
giờ bỏ qua đức thành tín của Ngài đối với Y-sơ-ra-ên. Vì dân Do Thái đang về
nhà! Y-sơ-ra-ên được tái sinh như một quốc gia! Và điều đó có nghĩa là Đấng Cứu
Rỗi đang trên đường đi đến. Theo cách riêng của mình và trong thời gian của
riêng mình, Ngài sẽ tự tỏ mình với anh em Do Thái của Ngài.
- Giô-sép
Chúng ta hãy để ra ít giây phút
cùng nhau tìm hiểu về câu chuyện của Giô-sép và anh em của ông. Cơ-Đốc nhân
luôn thấy trong Giô-sép một tiêu biểu về Chúa Jêsus. Cuộc sống của Đấng Christ
được báo trước trong đời sống của Giô-sép. Khi anh em Do thái đến với ông ở Ai
Cập để cầu xin thức ăn, họ không nhận ra Giô-sép trên ngai của Ai Cập, là chính
anh em của họ. Cuối cùng, Giô-sép quyết định bày tỏ chính mình cho họ biết.
Nhưng trước khi Giô-sép tỏ mình với anh em mình, Người làm một việc đáng lưu ý.
Ông đuổi người Ai cập, người ngoài Do thái, dân ngoại bang ra khỏi phòng. Đây
không phải là công việc của họ (Sáng thế ký 45: 1). Một khi tất cả người Ai-cập
ra đi, Giô-sép đã bước xuống khỏi ngôi của mình và nói, "Tôi là
Giô-sép!" "Thật là tôi đây!" (Sáng thế ký 45: 3). Cho đến thời
điểm đó, họ đã không nhận ra ông. Ông đã nói tiếng nước ngoài: tiếng Ai Cập,
không phải tiếng Do Thái - thậm chí như Tân Ước được viết bằng Hi Lạp chứ không
phải bằng tiếng Hê-bơ-rơ. Ông không giống một người Do Thái nào; quần áo và mái
tóc của ông là của một nhà quý tộc Ai Cập.
- Giống như Chúa Jêsus thường được
miêu tả trong nhiều bức họa như bất cứ điều gì khác, không giống người Do Thái.
Trong thực tế, đôi khi Ngài trông giống như một thần A-bô-lô Hi Lạp hơn là một
người Do Thái! Thậm chí Giô-sép có thể đã được người Ai Cập yêu thích và tôn thờ
như một vị thần trong các đền thờ của họ. Tại sao? Giô-sép đã được nâng lên một
vị thế cao như vậy (xem Sáng thế ký 41: 37-45) đến nổi ông có thể được coi là một
trong những người con của Pha-ra-ôn. Pha-ra-ôn đã được coi là thần mặt trời và
được người Ai Cập tôn thờ như một vị thần. Theo đó, con trai của ông đôi khi được
coi là những tia sáng của thần mặt trời đang cháy sáng. Cả gia đình có ít nhất
một liên lạc thần thánh về họ. Và là người có trách nhiệm về toàn bộ miền đất
Ai Cập, và Pha-ra-ôn đã nói với Giô-sép "trẩm lớn hơn ngươi chỉ ngai vua mà thôi" (Sáng thế ký 41:40) -
có nghĩa là chính Giô-sép cũng rất gần thần thánh đó! Giống như Chúa Jêsus là
toàn năng, chỉ có Cha ở trên và bên trên Ngài, nhưng Cha đã đặt mọi sự vào tay
Ngài (Giăng 3:35, Giăng 5: 19-23 và Giăng 13: 3) và do đó, Chúa Giêsu được nhiều
Cơ-Đốc nhân thờ phượng giống như Đức Chúa Trời trong hội thánh của họ và được
nhiều người tôn thờ và cầu nguyện, như với các pho tượng trong nhiều nhà thờ
('đền thờ') trên toàn thế giới, điều đó là đáng gớm ghiếc đối với người Do
Thái!
Cơ sở của đức tin Do thái được tìm thấy
trong Phục truyền 6: 4-5: "Hỡi Y-sơ-ra-ên! Hãy nghe: Giê-hô-va Đức Chúa Trời
chúng ta là Giê-hô-va có một không hai.
Anh em phải hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực mà kính mến Giê-hô-va Đức
Chúa Trời". Chúa Jêsus nắm giữ cùng đức tin (xin xem Mác 12: 28-34). Và
tình huống này giữa Giô-sép và anh em Do Thái của ông vẫn tiếp tục cho đến khi
Giô-sép quyết định tỏ mình cho họ biết. Bày tỏ mình với anh em của mình. Thông
thường qua nhiều thế kỷ, hội thánh đã miêu tả sai lầm về Chúa Giêsu với người
Do Thái. Chúng ta đã làm đen tối gương mặt của Chúa Jêsus cho các anh em của
Ngài một cách lạ thường.
Nhưng thời gian sẽ đến khi mà Y-sơ-ra-ên sẽ
thấy Jesus thực sự là ai. Rồi Ngài và họ sẽ ôm nhau, có thể là có nhiều nước mắt,
giống như anh em của Giô-sép đã làm (Sáng thế ký 45: 2). Thật là một cuộc gặp gỡ
vinh diệu và cảm động! Họ sẽ ôm chặt nhau và khóc. Trong thời gian của Ngài và
theo cách riêng của Ngài, Đức Chúa Trời sẽ làm điều đó: "Khi Y-sơ-ra-ên
tìm về nơi an nghỉ” (Giê-rê-mi 31: 2b). Thật là một giây phút tuyệt vời! Nhưng
sự hòa giải sẽ là duy nhất giữa Ngài và anh em của Ngài. Đằng sau cánh cửa đóng
kín, như vậy để nói chuyện. Trước khi Giô-sép tự tỏ mình với anh em người Do
Thái, ông đã đuổi người Ai Cập ra khỏi phòng! Dường như ông đang nói với người
Ai-cập: đây là việc riêng giữa tôi và anh em tôi.
Không có việc gì của bạn. Tại thời điểm đặc
biệt đó không có người ngoại bang tham gia. Ông ta nói với người Ai Cập: các
ngươi hãy rời khỏi phòng trong một phút. Các ngươi là những người tuyệt vời.
Các ngươi tuân theo tôi, và thờ lạy tôi, và biết tôi, vì tôi là ai. Nhưng điều
này là việc giữa tôi và anh em tôi. Điều này là rõ ràng trong việc Chúa lặp lại
"Ta sẽ" trong Giê-rê-mi 31: 31-35 (trích dẫn của Phao-lô trong Rô-ma
11: 26-27): "Ta sẽ ..., Ta sẽ ..., Ta sẽ ...," Chúa tối thượng phán
như vậy. Ngài sẽ đến từ Si-ôn và cất những tội lỗi của họ. Chính Ngài sẽ làm điều
đó cho thế hệ cuối cùng của Y-sơ-ra-ên, cho phần dân sót, đến lúc đó, đã trở về
đất của Y-sơ-ra-ên.
Một ngày kia sẽ là gì, khi cuối cùng
Y-sơ-ra-ên cũng được phép nhìn thấy Chúa Jêsus là ai. Và điều đó sẽ đến!
Xa-cha-ri đã nói tiên tri: “Ta sẽ đổ thần ân điển và nài xin trên nhà Đa-vít và
trên cư dân Giê-ru-sa-lem. Chúng sẽ nhìn xem Ta là Đấng chúng đã đâm, rồi chúng
sẽ than khóc Ngài như người ta than khóc đứa con một, và sẽ thương tiếc Ngài
như người ta thương tiếc con đầu lòng"(Xa-cha-ri 12:10). Con trai đầu lòng
của Đức Chúa Trời, Y-sơ-ra-ên, sẽ đau đớn cay đắng vì Con đầu lòng của họ là
Chúa Jêsus. Toàn bộ đất đai, mọi thế hệ, đàn ông và phụ nữ riêng biệt, sẽ đau
buồn. Thật là một khoảnh khắc đáng nhớ! Và ai biết được điều này bao lâu nữa sẽ
xảy ra? Chúa đang đưa dân Ngài trở về Y-sơ-ra-ên- đến vùng đất hứa- vì đó là
nơi Ngài muốn gặp gỡ họ. Y-sơ-ra-ên cuối cùng đang đi đến sự nghỉ ngơi của
mình, trên con đường được gắn kết vào Giao Ước Mới của mình mãi mãi, và làm phước
lành cho thế giới. "Khi Y-sơ-ra-ên tìm về nơi an nghỉ" (Giê-rê-mi 31:
2).
Hội thánh đã không thay thế cho Y-sơ-ra-ên,
giống như phép báp-têm cho trẻ sơ sinh không thay thế việc cắt bì, và các tòa
nhà hội thánh không thay thế Đền Thờ. Y-sơ-ra-ên là Y-sơ-ra-ên, và Hội thánh là
Hội thánh. Đức Chúa Trời sẽ làm trọn mọi lời hứa của Ngài cho Y-sơ-ra-ên, cũng
như Ngài sẽ làm trọn mọi lời hứa của Ngài cho Hội thánh. Chúng ta cần phải ngừng
trộn lẫn hai điều nầy, hoặc thay thế lẫn nhau, như đã từng được thực hiện trong
quá khứ.