Thứ Tư, 16 tháng 5, 2018

KHẢI THỊ 49


BẢY BÁT
(1)
Bây giờ, chúng ta đến với bảy bát (16:1-21).
I. BẢY TAI HỌA CUỐI CÙNG
Trong 8:13 có một con chim ưng bay giữa trời kêu lên rằng: “Khốn thay, khốn thay, khốn thay cho những kẻ ở trên đất, vì cớ tiếng kèn mà ba thiên sứ khác còn phải thổi nữa”. Ba khốn khổ của ba tiếng kèn cuối cùng (9:12; 11:14) sẽ là những khốn khổ của đại nạn (Mat. 24:21). Khốn khổ thứ nhất là tiếng kèn thứ năm trong chưong 9, và khốn khổ thứ hai là tiếng kèn thứ sáu, cũng trong chương 9. Khốn khổ thứ ba (11:14), tức một phần trong nội dung tiêu cực của tiếng kèn thứ bảy, là bảy bát. Bảy bát này là bảy tai họa cuối cùng (15:1). n thứ sáu cộng với bốn tiếng kèn đầu của ấn thứ bảy có thể đưc xem là phần mở đầu cho đại nạn, nhưng chính đại nạn thì bao gồm tiếng kèn thứ năm, tiếng kèn thứ sáu và phần nội dung tiêu cực của tiếng kèn thứ bảy.

II. QUANG CẢNH TRÊN TRỜI
TRƯỚC KHI BẢY BÁT ĐƯỢC ĐỔ RA
Quang cảnh trên trời được bày tỏ trước bảy ấn, một lần nữa trước bảy tiếng kèn, và một lần khác nữa trước bảy bát. Trước khi mở ra bảy ấn, chúng ta thấy một quang cảnh được mô tả trong chương 4 và 5. Trong quang cảnh này, chúng ta thấy một ngai được lập trên trời, một Đấng ngồi trên ngai, một cầu vồng ở quanh ngai, hai mươi bốn trưởng lão ngồi trên hai mươi bốn ngai, bốn sinh vật và Sư Tử-Chiên con xứng đáng (4:2-8; 5:5-6). Quang cảnh ấy hàm ý rằng Đức Chúa Trời ở trên ngai đang quản trị gia tể của Ngài qua Sư Tử-Chiên con xứng đáng là Đấng có đủ điều kiện để mở ra gia tể ẩn giấu của Đức Chúa Trời. Ngai quản trị của Đức Chúa Trời trong quang cảnh này chủ yếu dành cho sự phán xét.
Trong 8:3-5, chúng ta có quang cảnh trên trời trước khi thổi bảy tiếng kèn. Trong quang cảnh ấy, cả cõi trời trở nên im lặng khoảng nửa giờ (8:1). Ở đây, Đấng Christ là Thiên Sứ khác đến phục vụ như Thầy tế lễ Thượng phẩm cho Đức Chúa Tri bằng cách đem những lời cầu nguyện của các thánh đồ đến với Đức Chúa Trời và bằng cách pha hương vào những lời cầu nguyện ấy để có thể được Đức Chúa Trời chấp nhận. Bởi hương của Ngài, những lời cầu nguyện của các thánh đồ trở nên hương thơm ngọt ngào cho Đức Chúa Trời và đem sự phán xét của Ngài đến trên đất. Quang cảnh này bày tỏ rằng Đức Chúa Trời sắp đáp ứng những lời cầu nguyện của các thánh đồ là những lời cầu nguyện được dâng lên bởi Đấng Christ và bằng Đấng Christ qua những sự phán xét từ bảy tiếng kèn.
Trong 15:5-8, chúng ta có quang cảnh trên trời trước khi bảy bát được đổ ra. Đến đây, nhiều điều đã diễn ra: ấn thứ sáu, sáu tiếng kèn đầu tiên và thậm chí một phần của tiếng kèn thứ bảy. Lúc đó là thời điểm hoàn tất cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời (15:1). Cơn thạnh nộ của Đức Chúa Trời được đề cập trong 15:1, 7 và 16:1 hàm ý rằng Đức Chúa Trời nổi giận với kẻ thù của Ngài, đặc biệt là với Anti-christ và vương quốc của hắn. Dù Đức Chúa Trời đã thi hành phần lớn sự phán xét của Ngài và thực hiện gần hết những gì Ngài phải thực hiện, nhưng cơn thạnh nộ của Ngài vẫn chưa nguôi. Cơn thạnh nộ của Ngài còn đổ ra thêm nữa. Tuy nhiên, trước khi việc ấy xảy ra, một quang cảnh khác trên trời được bày tỏ. Bây giờ, chúng ta cần xem xét các phương diện của quang cảnh ấy.
A. Đền thờ được m ra
Khải Thị 15:5 chép: “Sau việc ấy, tôi thấy đền thờ của đền tạm chứng cớ ở trên trời mở ra”. Cụm từ “đền thờ của đền tạm chứng cớ” hơi khó hiểu vì theo lịch sử thì đền tạm có trước đền thờ và được thay thế bởi đền thờ. Thật ra, đền tạm và đền thờ là một. Chữ đền thờ trong tiếng Hi Lạp là naos không có nghĩa là đền thờ nói chung mà có nghĩa là đền thờ bên trong, tức Nơi Chí Thánh. Vì thế, đền thờ của đền tạm nghĩa là Nơi Chí Thánh của đền tạm. Đền tạm trong Cựu ước gồm có Nơi Thánh và phần sâu hơn là Nơi Chí Thánh. Đền thờ trong câu này là phần sâu hơn ca đền thờ, tức Nơi Chí Thánh, nơi đặt Hòm chứng cớ. Chứng cớ là luật của Đức Chúa Trời, là điều làm chứng về Đức Chúa Trời và được đặt trong Hòm chứng cớ (Xuất. 25:16). Vì Hòm chứng cớ được đặt trong đền tạm nên đền tạm được gọi là đền tạm chứng cớ. Ở đây, chúng ta thấy đền thờ của đền tạm chứng cớ trên trời được mở ra. Đền thờ không còn bị giấu kín nữa mà được mở ra cho cả vũ trụ nhìn xem.
Câu 5 tiếp theo 11:19 và phải đưc hiểu trong mối liên hệ với 11:19. Khải Thị 11:19 chép: “Đền thờ của Đức Chúa Trời ở trên trời bèn mở ra, trong đền thờ thấy có hòm giao ước của Ngài”. Ngai với cầu vồng trong 4:2-3 là trung tâm của mọi sự phán xét được thi hành trên đất trong các chương từ 6 đến 11 về mặt tiêu cực; trong khi đền thờ với hòm chứng cớ là trung tâm của những sự hoàn thành của Đức Chúa Trời trong vũ trụ được thực hiện trong các chương từ 12 đến 22 về mặt tích cực. Do đó, trong phần đầu ca sách Khải Thị, từ chương 1 đến chương 11, trọng tâm của khải thị là ngai với cầu vồng. Trong phần hai, từ chương 12 đến 22, trọng tâm của khải thị không còn là ngai với cầu vồng nữa, mà là đền thờ với hòm.
Ngai với cầu vồng chủ yếu là vì sự phán xét của Đức Chúa Trời trên đất, nhưng đền thờ với hòm thì chủ yếu vì sự xây dựng của Đức Chúa Trời để biểu lộ chính Ngài. Nói cách khác, đền thờ và hòm là vì chứng cớ của Đức Chúa Trời.
Chứng cớ của Đức Chúa Trời là sự biểu lộ chính Đức Chúa Trời qua sự xây dựng của Ngài. Cuối chương 11 có một trận động đất lớn, có lẽ là trận động đất lớn nhất lịch sử. Nhưng cuối phần thứ hai thì có Giê-ru-sa-lem Mới, tức toà nhà cùa Đức Chúa Trời, sự biểu lộ của Đức Chúa Trời và chứng cớ của Đức Chúa Trời. Toàn bộ Giê-ru-sa-lem Mới là Nơi Chí Thánh. Thành ấy sẽ là một hình lập phương có chiều dài, chiều rộng và chiều cao là 12.000 sta-đi-om (21:16) (khoảng 2.000 km, là khoảng cách từ Los Angeles đến Dallas). Đó là đền thờ được mở rộng, kết quả của 11 chương cuối của sách Khải Thị. Mười một chương đầu kết thúc với một trận động đất lớn, và 11 chương cuối kết thúc với Giê-ru-sa-lem Mới. Thật là một sự tương phản!
Trận động đất ở cuối chương 11 ra từ ngai với cầu vồng. Dù Đức Chúa Trời sẽ gây ra trận động đất kinh khủng ấy nhưng Ngài không tiêu diệt toàn thể nhân loại. Trái lại, cầu vồng quanh ngai nhắc Ngài về giao ước của Ngài. Cầu vồng ấy là Đấng Christ. Trong 10:1, chúng ta được biết rằng một Thiên Sứ mạnh mẽ khác, tức Đấng Christ, sẽ ngự xuống từ trời, mình mặc đám mây và đầu đội cầu vồng. Đấng Christ là cầu vồng hoàn vũ. Đang khi Đức Chúa Trời phẫn nộ thi hành sự phán xét của Ngài trên nhân loại phản loạn thì Đấng Christ trong đám mây sẽ là cầu vồng đề nhắc Đức Chúa Trời về giao ước Ngài lập với Nô-ê. Chúa Jesus là cầu vồng, dường như sẽ nói rằng: “Đức Chúa Trời ơi, Con đồng ý với Ngài về cơn thạnh nộ công chính của Ngài, nhưng Con nhắc Ngài về sự thành tín của Ngài. Ngài không thể quên giao ước đã lập với Nô-ê. Con là cầu vồng trong đám mây.” Cuối cùng, sự phán xét ca Đức Chúa Trời được thi hành với việc nhớ lại cầu vồng sẽ tha cho những người trở nên “chiên” trong Ma-thi-ơ chương 25, tức những người sẽ là dân trong vương quốc thiên hi niên. Nếu không nhờ cầu vồng ấy thì không ai sống sót để làm dân trong vương quốc sắp đến.
Đền thờ với hòm là sự biểu lộ của Đức Chúa Trời với Đấng Christ của Đức Chúa Trời, Đền thờ là nơi của Đức Chúa Trời, tức sự biểu lộ của Ngài, và hòm chứng cớ là Đấng Christ như chứng cớ của Đức Chúa Trời. Vì 11 chương cuối của sách Khải Thị dành cho sự biểu lộ của Đức Chúa Tri và Đấng Christ của Ngài nên trọng tâm của phần này là đền thờ của Đức Chúa Trời và hòm của Đức Chúa Trời. Cuối cùng, Giê-ru-sa-lem Mới sẽ là đền thờ được mở rộng, và trong đền thờ ấy sẽ có hòm, tức Đấng Christ là Chiên con. Vì vậy, là kết quả những hành động của Đức Chúa Trời trong các chương từ 12 đến 22, chúng ta thấy đền thờ đời đời với hòm đời đời.
Muốn hiểu sách Khải Thị, chúng ta phải có một cái nhìn bao-hàm-tất-cả như vậy. Chỉ bởi có cái nhìn ấy chúng ta mới biết mình đang đâu. Người nữ và người con trai cn thiết cho đền thờ của Đức Chúa Tri và hòm của Đức Chúa Trời. Người nữ sáng láng là vì Giê-ru-sa-lem Mới. Cuối cùng, thành ấy sẽ là người nữ, vì với tư cách là thành-người nữ, người nữ ấy sẽ là Vợ của Chiên con (21:9-10).
Đức Chúa Trời cũng sẽ dùng con rồng để hoàn thành mục đích của Ngài về phương diện tiêu cực. Khi Ngài không còn dùng đến Sa-tan nữa, tức thì Ngài phán với hắn rằng: “Hỡi Sa-tan, hãy vào hồ lửa.” Đức Chúa Trời thật vĩ đại, và Ngài tể trị. Sách này cho thấy rằng Sa-tan hoàn toàn ở trong bàn tay của Đức Chúa Trời. Đừng nghĩ rằng Đức Chúa Trời sử dụng Sa-tan là không công bằng. Đức Chúa Trời công bằng hơn nhiều so với anh em. Ai tự cho mình có th tranh luận với Ngài? Trong La Mã 9:20 và 21, Phao-lô nói: “Nhưng, ớ người kia, ngươi là ai mà dám gạn lại Đức Chúa Trời? Vật được nắn nên há lại nói vói kẻ nắn nên nó rằng: Sao ngươi làm nên ta như vậy? Thợ gốm há chẳng có uy quyền trên đất sét, cùng trong một đống mà làm phần nảy ra chiếc bình sang trọng, phần kia ra chiếc bình hèn hạ sao?" Nếu anh em dám tranh luận với Đức Chúa Trời thì Ngài có thể trả lời rằng; “Ta là Đấng tạo dựng, còn ngươi là đất sét. Ngươi không biết rằng Ta có quyền tạo ra bất cứ điều gì tùy thích sao? Ta có quyền năng tạo ngươi thành bất cứ điều gì Ta muốn. Ngươi là ai mà tranh luận với Ta?” Đức Chúa Trời có quyền tối cao. Sau khi đọc đi đọc lại sách Khải Thị, tôi chỉ có thể thưa: “Đức Chúa Trời ơi, con thờ phượng Ngài về quyền tối cao của Ngài. Con thờ phượng Ngài vì Ngài đã chọn con làm một trong các con của Ngài và thậm chí làm một trong những tôi tớ của Ngài.” Ô, tất cả chúng ta đều phải thờ phượng Ngài biết bao!
B. Bảy thiên sứ từ đền thờ ra
Câu 6 chép; “Bảy thiên sứ cầm bảy tai hoạ từ đền thờ đi ra, mình mặc vải gai trong sạch sáng sủa, ngực thắt đai vàng.” Bảy thiên sứ ăn mặc như những thầy tế lễ (Êxc. 44:17) chứ không như những người lính. Theo ý tôi, các thiên sứ trút bảy bát đúng ra phải mặc quân phục. Sự kiện họ mặc y phục của thy tế lễ thì rất có ý nghĩa. Điều ấy hàm ý rằng việc bảy thiên sứ trút bảy bát ra là sự đáp lại những lời ngợi khen của những người đắc thắng muộn trên bin pha lê hòa với lửa. Những người đắc thắng muộn đứng trên biển pha lê sẽ thờ phượng Đức Chúa Trời bằng những lời ngợi khen của mình. Khi ấy, sự cầu nguyện sẽ chấm dứt và sự ngợi khen sẽ bắt đầu. Trong ấn thứ năm, chúng ta thấy sự kêu la, lời cầu nguyện của các thánh đồ tử đạo (6:9-11). Nhưng trong chương 15 thì không có sự kêu la hay lời cầu nguyn mà chỉ có những lời ngợi khen. Những người đắc thắng muộn không cầu nguyện: “Chúa ơi, Anti-christ đã bắt bớ và giết chết chúng con. Bây giờ, Ngài phải đến báo thù cho huyết của chúng con và hủy diệt vương quốc của hắn.” Thay vì cầu nguyện như vậy, những người đắc thắng muộn ngợi khen Đức Chúa Trời. Ngay sau phần chép về những lời ngợi khen của họ thì có sự lộ ra quang cảnh trên trời trước khi trút ra bảy bát. Từ đền thờ của đền tạm chứng cớ trên tri có bảy thiên sứ cầm bảy tai họa đi ra. Các thiên sứ ấy không ăn mặc như những người lính mà như những thầy tế lễ đến hoàn thành chức vụ của mình. Đây không còn chỉ là vấn đề phán xét, vì sự phán xét ở đây được hòa quyện với sự hoàn thành gia tể của Đức Chúa Trời để Đức Chúa Trời có thể có được sự biểu lộ của Ngài.
Đến đây, chúng ta cần đặc biệt chú ý đến 16:17. Câu ấy chép: “Thiên sứ thứ bảy trút bát mình trong khoảng không, bèn có tiếng lớn từ nơi ngai ở trong đền thờ mà ra, phán rằng: Xong rồi!” Xin lưu ý rằng trong câu này có hai điều được hòa quyện với nhau là đền thờ và ngai. Khó mà hiểu được cấu trúc văn phạm của câu này. Tiếng “từ nơi ngai ở trong đền thờ mà ra” có nghĩa là gì? Chúng ta đã thấy rằng những hành động của Đức Chúa Trời trong phần thứ nhất của sách này ra từ ngai, và những hành động của Ngài trong phần thứ hai thì ra từ đền thờ. Sách Khải Thị trước hết bày tỏ trung tâm phán xét của Đức Chúa Trời là ngai, và sau đó bày tỏ trung tâm chứng cớ của Đức Chúa Trời là đền thờ. Trong câu này, ngai và đền thờ được kết hiệp với nhau, Bấy giờ, sự phán xét của Đức Chúa Trời được hòa quyện với sự biểu lộ của Đức Chúa Trời, với chứng cớ của Đức Chúa Trời. Nói cách khác, chứng c của Đức Chúa Trời ra từ sự phán xét của Ngài, vầ sự phán xét của Đức Chúa Trời là vì chứng cớ của Đức Chúa Trời. Đền thờ ra từ ngai, và ngai là vì đền thờ.
Nguyên tắc này có thể áp dụng cho chúng ta ngày nay. Nếu muốn vì đền thờ của Đức Chúa Trời, tức vì sự biểu lộ ca Ngài, chúng ta phải được phán xét. Nguyên tắc trung tâm của 11 chương đầu trong sách Khải Thị phải được áp dụng trong nếp sống hằng ngày, nếp sống cộng đồng và nếp sống Hội thánh của chúng ta. Còn bao nhiêu điều trong chúng ta cần được phán xét! Trong đời sống của chúng ta có nhiều “bò cạp”, “rắn rết” và “ếch nhái.” Nhiều “bò cạp” vẫn còn tới lui trong nếp sống gia đình và đời sống hôn nhân của anh em, và “ếch nhái” vẫn đang quấy rối nếp sống Hội thánh. Tất cả những “bò cạp” và “ếch nhái” ấy phải được phán xét. Kết quả của sự phán xét ấy sẽ là chứng cớ “từ nơi ngai ở trong đền thờ.”
c. Bảy bát vàng được ban cho bảy thiên sứ
Câu 7 chép: “Một trong bốn sinh vật ban cho bảy thiên sbảy cái bát bằng vàng đựng đầy sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời, là Đấng hằng sống đời đời.” Bảy bát đưc một trong bốn sinh vật ban cho đựng đầy sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời Những cái bát thì nhỏ, tượng trưng cho sự giới hạn. Dù bảy tai họa cuối cùng là sự phẫn nộ tột cùng của Đức Chúa Trời nhưng sự phẫn nộ ấy vẫn có hạn; nếu không thì cả trái đất và tất cả những cư dân trên đất đều sẽ bị hủy diệt. Để thực hiện mục đích đời đời của Ngài, Đức Chúa Trời vẫn hạn chế sự phẫn nộ tột cùng của Ngài trong việc phán xét trái đất. Việc trút ra sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời thì cực kì nghiêm trọng nhưng điều đó vẫn bị giới hạn. Đức Chúa Trời đầy lòng thương xót. Con thú, dân của hắn và toàn thể vương quốc của hắn đáng bị tận diệt không chút nương tay nhưng Đức Chúa Trời vẫn hạn chế để trút sự phẫn nộ của Ngài trong một phạm vi nhỏ. Cảm tạ Chúa về điều này!
D. Đền thờ đầy khói do vinh hiển và quyền năng của Đức Chúa Trời
Câu 8 chép: “Đền thờ bèn đầy khói do vinh hiển của Đức Chúa Trời quyền năng của Ngài mà ra; chẳng ai có thể vào đền thờ cho đến chừng nào bảy tai hoạ của bảy thiên sứ được trọn ”. Điều này có nghĩa là không ai có thể vào trong đền thờ để cầu xin vãn hồi sự phẫn nộ của Đức Chúa Trời cho đến khi sự phẫn nộ ấy được trút ra hết trên những người phản loạn là những người bị Sa-tan xúi giục và bị Anti-christ ảnh hưởng.