Một lời rõ ràng về chủ đề
Báp-têm
Vào lúc kết thúc bài giảng của Phi-e-rơ trong Ngày Lễ Ngũ Tuần, những
người nghe (người vô tín, vẫn chưa tin) liền hỏi, “Các anh ơi, chúng tôi phải
làm gì đây?’ Công Vụ Các Sứ Đồ 2:37.Khi nghe câu hỏi này, Phi-e-rơ phát ngôn nhân
của Đức Chúa Trời và của Hội Thánh - đã lập tức đưa ra một câu trả lời rõ ràng:
“ Hãy Ăn năn ... nhận báp têm ... và nhận lãnh quà tặng là Đức Thánh Linh.” Đây
là điều kiện bắt buộc của Đức Chúa Trời cho mọi tội nhân muốn được giải hòa với
Ngài. Nó bao gồm ba kinh nghiệm riêng biệt nhưng liên quan với nhau: ăn năn, báp-têm
và tiếp nhận Đức Thánh Linh. Điều kiện này của Đức Chúa Trời chưa bao giờ thay
đổi. Thậm chí cho đến hôm nay.
Điểm chính trong điều khoản của Đức Chúa Trời là sự giảng dạy về
phép báp-têm. Trong toàn bộ Tân Ước, phép báp-têm luôn được liên kết trực tiếp
với sự cứu rỗi. Hội thánh đầu tiên không biết gì về một sự cứu rỗi nếu không có
phép báp-têm xảy ra tiếp theo sau. Từ ngày Lễ Ngũ Tuần về sau, mỗi người tin đều
chịu phép báp-têm ngay sau khi tin, thường xảy ra cùng ngày hôm đó. Lễ báp-têm là
một nghi thức được bao gồm Hội Thánh của Đức Chúa Jêsus Christ. Đặc biệt trong
câu chuyện chấp sự Phi-líp đi xuống Sa-ma-ri ‘rao giảng Đấng Christ’ cho dân
chúng ở đó.
Kết quả là, những người tin rằng đều chịu phép báp têm (Công vụ
8:12). Sau đó, trong cuộc gặp gỡ hoạn quan Ê-thi-ô-pi trên đường đến Ga-xa, Phi-líp
đã ‘rao giảng Chúa Jêsus cho anh ta.’ Kết quả là, vị hoạn quan đã lấy cơ hội đầu
tiên để chịu báp-têm (Công-vụ 8:38). Rõ ràng phép báp têm là một phần không thể
thiếu trong sứ điệp về Chúa Jêsus Christ như được trình bày bởi Hội Thánh Tân Ước.
Vì lý do này, điều quan trọng là Hội Thánh cần tiếp tục trình bày một sứ điệp về
báp-têm cách rõ ràng và quả quyết cho tất cả mọi người.
Câu hỏi phát sinh
Trong suốt lịch sử, phần lớn các nhóm Cơ-đốc khác nhau đã căn cứ
trên việc giảng dạy của họ liên quan đến phép báp-têm dựa trên Đại Mạng lệnh của
Chúa Jêsus, để làm phép báp têm. Bằng cách “Nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Chúa
Con và Đức Thánh Linh.” Tuy nhiên, tại các thời điểm khác nhau đã dấy lên các
nghi vấn. Tại đây, sự dạy dỗ về phép phép báp-têm dường như không chính xác,
trong đó các điểm chính như sau:
1. Từ Lễ Ngũ Tuần về sau, nghi thức của Hội Thánh đầu tiên chỉ là
làm phép báp-têm trong Danh Đức Chúa Jêsus Christ.
2. Công thức làm báp-têm trong Ma-thi-ơ 28:19 không được xác nhận bởi
bất kỳ văn bản Tân ước nào khác, do đó nó cần phải bị loại ra vì giả mạo, thiếu
tính xác thực và không hợp lệ.
3. Các tín hữu đã chịu phép báp-têm “Nhân danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa
Con và Đức Thánh Linh” nên được tái báp-têm “Nhân danh Chúa Jêsus Christ.”
4. Phép báp-têm trong Tân Ước tương ứng với lễ cắt bì trong Cựu Ước.
Do đó nếu các tín hữu không chịu phép báp-têm một cách hợp lệ thì kể như không được
cắt bì về mặt thuộc linh.
Việc giảng dạy không chính xác này cần phải được giải quyết không
chỉ đơn thuần là vì những gì nó nói về phép báp têm, mà còn hơn thế bởi vì một
số lý do phi Kinh Thánh được sử dụng để hỗ trợ. Bản chất của những lập luận
này là chúng ảnh hưởng đến sự hiểu biết của cả hai về phép báp-têm và các nguyên tắc cơ bản xác nhận tính hợp lệ của các bản văn Tân
Ước và sự giảng
dạy chung. Vì lý do này, tôi đã đặt ra một số lý luận cho sự dạy dỗ ở đây, với một phân tích ngắn gọn cho mỗi phần trình bày. Trong mỗi trường hợp, hàm ý của sự giảng dạy
không chính xác này được in bằng chữ in đậm. Phân tích của tôi về nó theo kiểu chữ in thường.
Tên của Chúa Jêsus
Điều này có nghĩa khi một người chịu phép báp-têm “Nhân
danh Đức Chúa Cha, Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh” tức là không chịu phép báp
têm trong danh Chúa Jêsus. Để hội đủ điều kiện cho phép báp têm như một tín hữu
Cơ-Đốc, một người chắc hẳn đã thừa nhận rằng Chúa Jêsus Christ là Con Đức Chúa
Trời (Ma-thi-ơ 16: 16–18; Giăng 20:31; 1 Giăng 4:15, 5: 5). Đối với một người
như vậy, từ “Con trai”, khi được viết bằng chữ “s” và đứng phía trước là mạo từ
xác định “the”, có nghĩa Chúa Jêsus Christ là duy nhất. Trong trường hợp cả hai
người báp-têm và người chịu phép báp-têm đã thực hiện sự thừa nhận này, thì phép
báp-têm nhân danh ‘Con’ là bởi thực tế đó là một phép báp têm trong Danh của
Chúa Jêsus Christ.
Điều này ngụ ý rằng Chúa Jêsus là một cái tên, nhưng Cha
và Thánh Linh không phải là tên, mà là danh hiệu. Với ngôn ngữ như tiếng Anh,
chúng ta có thể phân biệt giữa điều này chẳng hạn như William hay George, và một
danh hiệu như vua hoặc chủ tịch. Tuy nhiên, các tác giả của Tân ước đã không tạo
ra sự khác biệt này trong tiếng Hy lạp nguyên thủy liên quan đến chữ “Cha” được
áp dụng cho Đức Chúa Trời. Có nhiều đoạn trong Tân Ước, trong đó chữ ‘”tên” được
sử dụng trực tiếp với từ ngữ “Cha”. Ví dụ, Chúa Jêsus đã nói, 'Và bây giờ, Cha
ơi, ... Con đã bày
tỏ danh Cha cho những người Cha ban cho Con.”
Nó cũng ngụ ý rằng những chỗ Kinh thánh chép về những người
chịu phép báp-têm nhân danh Chúa Jêsus, những người đó chịu phép báp têm chỉ
trong danh Chúa Jêsus, và không có tên hay danh nào khác được thêm vào. Đây là
một giả định không thể được chứng minh từ Kinh thánh. Trong những đoạn khác
nhau nói về những người chịu phép báp-têm nhân danh Chúa Jêsus, không có từ “chỉ”
nào được đính kèm cả.
Điều này có thể được minh họa từ các đoạn khác của Tân ước.
Mác đã chép rằng “một người bị uế linh ám” gặp Đức Chúa Jêsus (Mác 5: 1–2).
Ma-thi-ơ nói rằng: “Đức Chúa Jêsus gặp hai người bị quỷ ám” (8:28). Mác và
Ma-thi-ơ đang mô tả cùng một sự việc. Mác nói rằng có một người đàn ông. Ma-thi-ơ
nói rằng có hai người đàn ông. Tuy nhiên, không có sự khác biệt. Trên thực tế,
có hai người đàn ông, nhưng Mác chỉ đề cập đến một trong số họ. Sẽ có sự khác
biệt nếu Mác nói rằng chỉ có một người đàn ông. Nhưng ông không nói điều đó. Từ
thực tế là Mác nói “một người đàn ông”, có thể giả định rằng chỉ có một người
đàn ông. Nhưng giả định như vậy sẽ không chính xác.
Tương tự như vậy, Kinh Thánh khi nói về những người chịu
phép báp-têm nhân danh Chúa Jêsus không tự biện minh cho giả định rằng những
người này chỉ chịu phép báp têm trong danh Chúa Jêsus. Nếu không có bằng chứng
ngược lại, nó sẽ mở ra khả năng cho các từ/ cụm từ khác đã được thêm vào.
Công thức báp-têm
Ở đây ngụ ý rằng không có phân đoạn nào khác trong Tân Ước
xác nhận việc sử dụng công thức báp-têm tội được ghi lại trong Ma-thi-ơ 28:19.
Nhưng lý luận này không chắc chắn cho lắm. Chúng ta có bản tường trình về một
cuộc gặp gỡ giữa Phao-lô và một số môn đồ tại Ê-phê-sô. Rõ ràng lúc đầu Phao-lô
cho rằng những người này là những Cơ đốc nhân (các môn đệ của Chúa Jêsus).
Nhưng sau khi nói chuyện với họ, ông phát hiện ra rằng họ chỉ là môn đồ của
Giăng Báp-tít (Công vụ 19: 1–5). Họ đã chưa chịu phép báp têm của Cơ-đốc-nhân,
nhưng chỉ với phép báp têm của Giăng Báp-tít mà thôi. Hai yêu cầu cơ bản cho
phép báp-têm của Giăng là sự ăn năn và xưng tội, và không phải theo bất kỳ cái
tên nào. Phao-lô bắt đầu bằng việc hỏi những Cơ đốc nhân này: “Từ khi tin, anh
em đã nhận lãnh Đức Thánh Linh chưa?” Họ trả lời: “Chúng tôi chưa từng nghe nói
có Đức Thánh Linh nào cả.” Các bạn có thể tự hỏi: Tại sao Phao-lô liên hệ với
hình thức báp-têm khi nghe về Đức Thánh Linh? Lời giải thích của chúng ta là lễ
báp-têm của Cơ-Đốc-Nhân, như Phao-lô đã biết, là ‘trong’ hay nhiều hơn theo
nghĩa đen, ‘vào’ danh của Đức Chúa Cha và của Đức Chúa Con và Đức Thánh Linh.
Do đó, nếu những người này đã nhận được phép báp têm của Cơ-Đốc Nhân, thì họ nhất
thiết phải nghe về Đức Thánh Linh khi họ báp têm. Hiểu theo cách này, Công-vụ
19: 2–3 đã xác nhận cho Ma-thi-ơ 28:19.
Các căn cứ duy nhất khác được đưa ra để phủ nhận văn bản
được chấp nhận trong Ma-thi-ơ 28:19 dựa trên các lập luận nội bộ và các lý do giáo
lý. Đây là cách nhận định chủ quan, không khách quan. Theo ánh sáng của những
gì tôi đã trình bày ở trên, tôi không cảm thấy những lập luận giáo lý này mang
bất kỳ sự thuyết phục nào. Nếu chúng ta chấp nhận lập luận của loại hình này để
đặt câu hỏi về tính hợp lệ của Ma-thi-ơ 28:19, thì sẽ không có giới hạn rõ ràng
nào về số lượng các đoạn khác trong Kinh Thánh Tân Ước mà cũng có thể được đặt ra
để kiểm tra.
Cuối cùng, bản văn sẽ không còn là thẩm quyền của giáo lý
nữa, nhưng giáo lý sẽ trở thành thẩm quyền của bản văn. Rõ ràng đây sẽ là một sự
đảo ngược ý nghĩa cách sâu xa mà không có một Cơ đốc nhân chân thành nào có thể
đủ khả năng để quan tâm.
Nó cũng ngụ ý rằng, ngoài Ma-thi-ơ 28:19, tất cả các phân
đoạn khác của Tân Ước, các cụm từ duy nhất khác, không có cụm từ nào sử dụng
liên quan đến phép báp têm. Điều này không đúng. Trên thực tế các cụm từ khác
nhau được sử dụng. Trong Công-vụ 2:38, cụm từ là ‘trong danh Chúa Jêsus
Christ.” Lời tiên tri Hy-văn ở đây được dịch là ‘trong’ không giống như trong
Ma-thi-ơ 28:19 và Công-vụ 19: 5. Ý nghĩa bình thường của nó là “Khi nào”. Cụm từ
“dựa trên Danh của Chúa Jêsus Christ” đã được hiểu là “dựa trên thẩm quyền của
Chúa Jêsus Christ”. Có lẽ nó có nghĩa là “Khi xưng tội với Chúa Jêsus Christ -
nghĩa là, “Lời xưng nhận rằng Chúa Jêsus là Đấng Christ [Đấng Mê-si-a].”
Điều này sẽ phù hợp với lời tuyên bố của Phi-e-rơ trong
Công Vụ Các Sứ Đồ 2:36: “Vì thế, cả nhà Y-sơ-ra-ên hãy biết chắc chắn rằng Đức
Chúa Jêsus nầy, Đấng mà anh em đã đóng đinh trên thập tự giá, đã được Đức Chúa
Trời tôn làm Chúa và Đấng Christ [Đấng Mê-si-a].” Vì vậy, cụm từ này trong
Công-vụ 2:38 nêu rõ đều kiện cơ bản để tiếp nhận phép báp têm của Cơ đốc nhân –
là sự thừa nhận rằng Chúa Jêsus là Đấng Christ (Đấng Mê-si-a). Điều kiện này vẫn
không thay đổi dù sử dụng bất kỳ công thức báp-têm nào.
Niềm tin cá nhân của tôi là các Cơ-đốc-nhân Tân Ước sẽ
không bao giờ cho phép sử dụng một công thức đặc biệt nào của phép báp têm khiến
trở nên một nan đề nghiêm trọng. Họ nên quan tâm đến kinh nghiệm cá nhân nhiều
hơn một công thức bằng lời nói. Sự khăng khăng cứng nhắc về một công thức đặc
biệt có thể trở thành một nan đề lớn, khi ấy đời sống tự do thật trong Đức Thánh
Linh đã bị đẩy ra khỏi Giáo Hội.
Xác nhận của Kinh Thánh
Điều này ngụ ý rằng một phân đoạn Kinh Thánh không là cơ
sở hợp lệ cho giáo lý trừ khi có ít nhất một đoạn Kinh Thánh khác nói cùng một
điều. Nếu chúng ta xác nhận lý thuyết này với kết luận logic của nó, đồng nghĩa
nói rằng: “Chúng ta không thể chắc chắn rằng Đức Chúa Trời có nghĩa là những gì
Ngài nói trừ phi Ngài nói ít nhất hai lần.” Rõ ràng là không có Cơ đốc nhân đáng
kính nào có thể chấp nhận một kết luận như vậy.
Lý thuyết này khẳng định sự cần thiết của ít nhất hai đoạn
Kinh Thánh căn cứ trên sự dạy dỗ “lời của hai hoặc ba nhân chứng mà mọi lời được
xác nhận.” (Phục truyền luật lệ Ký 19:15, Ma-thi-ơ 18:16). Tuy nhiên, nên nhớ nguyên
tắc này chỉ được áp dụng cho các thủ tục mà theo đó hiệu lực của lời làm chứng
có thể được thiết lập trong các yêu cầu tư pháp hoặc các trường hợp xung đột giữa
các bên khác nhau của con người. Nó không thể được áp dụng một cách chính xác
cho những lời phán trực tiếp từ chính Đức Chúa Trời.
Nếu chúng ta áp dụng đúng nguyên tắc này cho Kinh Thánh,
thì sẽ không đủ để tìm ra hai đoạn Kinh thánh khác nhau để hỗ trợ cho mỗi lẽ thật.
Chúng ta cần phải tìm hai trước giả khác nhau để hỗ trợ cho mỗi tuyên bố. Không
có vấn đề bao nhiêu lần một trước giả có thể nói cùng một điều, ông vẫn chỉ là
một nhân chứng.
Sự dạy dỗ này nếu được áp dụng sẽ khiến Kinh Thánh tự mâu
thuẫn. Phao-lô nói: “Cả Kinh thánh đều… có ích cho sự dạy dỗ” 2 Ti-mô-thê 3:16.
Kinh Thánh không hội đủ điều kiện này theo bất kỳ cách nào. Phao-lô không nói: “Cả
Kinh thánh đều có ích cho sự dạy dỗ, miễn là nó được Thánh Kinh xác nhận.” Nếu
Kinh thánh là “Lời của Đức Chúa Trời,” như Chúa Giê-su đã nói trong Giăng
10:35, có nghĩa chỉ duy Kinh Thánh đã thiết lập uy quyền của nó một cách đầy đủ
. “Đức Chúa Trời ... khôngbao giờ nói dối” Tít 1: 2. “Mỗi lời của Đức Chúa Trời
đều được tinh luyện” Châm ngôn 30: 5. ‘Lời của Cha là chân lý” Giăng 17:17.
Có nhiều câu hoặc tường trình quan trọng chỉ xảy ra một lần
trong Kinh thánh. Lời cầu nguyện cao thượng của Chúa Jêsus chỉ được ghi lại
trong Giăng 17. Lời tuyên bố rằng khi có hai hay ba người nhóm họp trong danh
Ngài, Chúa Jêsus ở giữa họ, chỉ được chép trong Ma-thi-ơ 18:20. Sự thật là mỗi
Cơ-đốc-nhân, chúng ta đang ngồi với Đấng Christ ở những nơi trên trời chỉ được
chép trong Ê-phê-sô 2: 6. Thực tế là các tín đồ sẽ ra đi gặp Chúa trong khoảng không
khi Ngài tái lâm chỉ chép trong 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4:17. Đó chỉ là một vài trong
số rất nhiều ví dụ.
Tuy nhiên, có một nguyên tắc quan trọng mà chúng ta phải
thừa nhận. Trường hợp bất kỳ chủ đề nào được nhắc đến nhiều hơn một lần trong
Kinh Thánh, bất kỳ giáo lý nào về chủ đề đó, là để truyền lệnh sự chấp hành của
chúng ta, tín hữu phải đồng ý với tất cả các đoạn Kinh Thánh đề cập đến vấn đề
đó. Điều này áp dụng cho việc giảng dạy Tân ước liên quan đến phép báp-têm. Để hướng
dẫn sự chấp hành hoàn toàn của chúng ta, bất cứ giáo lý nào về phép báp têm phải
phù hợp với tất cả các đoạn Kinh Thánh đề cập đến chủ đề này, kể cả Ma-thi-ơ
28:19.
Không cắt bì tâm linh
Điều này ngụ ý rằng phép báp-têm trong giao ước mới tương
ứng với lễ cắt bì trong giao ước cũ, và do đó một Cơ đốc nhân chưa chịu phép
báp têm bằng công thức đúng có nghĩa chưa được cắt bì. Rôma 6: 4 và Cô-lô-se
2:12 nói rõ rằng phép báp-têm tương ứng với chôn cất. “Bởi báp-têm, chúng ta được
chôn vào trong sự chết với Ngài [Đấng Christ].” Trước khi lễ an táng có thể được
tổ chức, phải có xác chết. Trong phép báp-têm, thân xác chết chóc này là người
cũ, là thân thể của tội lỗi và xác thịt. “Người cũ của chúng ta đã cùng bị đóng
đinh vào thập tự giá với của Ngài” 6: 6. “Nếu Đấng Christ ở trong anh em, thì
dù thân thể anh em chết vì tội lỗi” Rô-ma 8:10. “Những ngươi thuộc về Đấng
Christ Jêsus đã đóng đinh xác thịt” Ga-la-ti 5:24. Trong bối cảnh này, các cụm
từ như thân thể hoặc xác thịt không biểu thị thân thể vật chất theo nghĩa đen,
mà đúng hơn là bản chất xác thịt, người thiên nhiên nổi loạn được kế thừa từ
Adam. Khi Đấng Christ được tiếp nhận vào lòng bởi đức tin để làm Đấng Cứu Thế và
Chúa thì bản chất cũ này “chết.” Sau đó, nó được chôn cất bởi hành động báp-têm.
Một điểm cần sáng tỏ đó là chúng tôi không chôn một người
để khiến cho anh ta chết. Một người phải đã chết trước khi chúng tôi có quyền
chôn anh ta. Tương tự như vậy, cái chết của bản chất cũ phải đã diễn ra qua đức
tin nơi Đấng Christ trước khi chúng ta có thể chôn cất bản chất cũ bằng phép
báp-têm. Báp-têm không làm cho bản chất cũ chết. Đó chỉ là bằng chứng bên ngoài
rằng cái chết của người cũ đã xảy ra.
Một người tìm kiếm cái chết của bản chất cũ bởi hành động
báp-têm là sau một khóa học là quan điểm phi logic và phi Kinh Thánhl, và nó sẽ
không tạo ra kết quả mong muốn.
Phao-lô giải thích thứ tự này rất rõ ràng. Trước hết, ông
nói rằng là các Cơ-đốc-nhân, chúng ta “nhận cắt bì không phải do tay con người
thực hiện nhưng là sự cắt bì bởi Đấng Christ, tức là sự lột bỏ bản chất xác thịt
của chúng ta” Cô-lô-se 2: 11–12. Sau đó, ông cũng nói rằng chúng ta “được chôn
với Ngài trong báp têm.” Đây là thứ tự logic, không thể đảo ngược được. Trước
tiên chúng ta phải buông bỏ thân thể tội lỗi của xác thịt bằng phép cắt bì của
Đấng Christ. Sau đó, chúng ta phải “chôn cất bằng phép báp têm” cái “thân thể”
này đã được “kết liễu.” Phép cắt bì là “lột bỏ thân thể.” Phép báp têm là “chôn
cất thân thể” do đó nó bị “kết liễu.” Vì vậy cắt bì không phải là phép báp têm.
Cắt bì là kết thúc; báp têm là chôn cất.
Phao-lô mô tả ‘sự cắt bì’ thật sự của giao ước mới như
sau. Ông nói: “Chúng ta là những người được cắt bì thật, những người phục vụ Đức
Chúa Trời bởi Thánh Linh, hãnh diện trong Đấng Christ Jêsus, và không để lòng
tin cậy vào xác thịt” Phi-líp 3: 3. Không có sự ám chỉ nào ở đây về báp-têm. Mặt
khác, cụm từ “không để lòng tin cậy vào xác thịt” tương ứng với cụm từ về “lột
bỏ bản tính xác thịt” Cô-lô-se 2:11. Cắt bì là sự từ bỏ tất cả sự tự tin trong
“xác thịt”, do đó “lột bỏ xác thịt.” Báp-têm là sự chôn cất “xác thịt” sau khi
nó bị “sa thải”. Hai điều này liên quan chặt chẽ, nhưng chúng không giống hệt
nhau.
Bản chất cũ của bạn có được chôn cất chưa?
Các giáo lý như ở đây về phép báp têm thường đặt ra những
câu hỏi. Thứ nhất: Nếu sau khi báp têm, một Cơ đốc nhân không trải nghiệm những
kết quả trong cuộc đời của mình mà Kinh thánh mô tả tiếp theo, điều đó có minh chứng
rằng phép báp têm của anh ta không hợp lệ hay không?
Không nhất thiết. Điều này có thể được minh họa bằng cách
so sánh với phép báp têm bằng Thánh Linh. Một người có thể nhận được một kinh
nghiệm chân thật, đúng Kinh Thánh về phép báp têm trong Đức Thánh Linh, nhưng kết
quả xảy ra theo sau có thể thiếu trong đời sống của người đó. Biện pháp khắc phục
cho việc này không phải là chịu phép báp têm trong Thánh Linh lần nữa. Biện
pháp khắc phục là cần đáp ứng các yêu cầu của Đức Chúa Trời – chẳng hạn như ăn
năn, cam kết, cầu nguyện, học Kinh Thánh, điều này sẽ làm cho phép báp têm ban
đầu trong Thánh Linh hiệu quả hơn.
Nguyên tắc tương tự có thể được áp dụng cho phép báp-têm
bằng nước. Phép báp têm bằng nước đôi khi không tạo ra hiệu quả như mong đợi bởi
vì người chịu phép báp-têm cẩu thả trong các khía cạnh khác của nghĩa vụ người Cơ
đốc. Đối với họ, để được “tái báp têm” có thể là một cách để đối mặt với thất bại
trong các lĩnh vực khác. Tôi đã gặp những người đã chịu phép báp têm nhiều lần,
và ai cũng có thể dễ dàng thuyết phục để thử lại lần nữa. Điều này làm giảm hạ
phép báp têm bằng nước đến mức giống như một loại tiêm ngừa tôn giáo. Nếu nó
không phải là lần đầu tiên, họ lặp lại nó cho đến khi nó xảy ra. Và ngay cả khi
phải mất, sau một vài năm, các hiệu ứng có thể bị mất đi và người đó sẽ phải được
tiêm chủng lại (tái báp têm). Rõ ràng đây không phải là một bức tranh của Kinh
Thánh về phép báp têm.
Mỗi tín đồ có thể gặp rắc rối về tính hợp lệ trong phép
báp têm của họ. Tôi sẽ trình bày những câu hỏi đơn giản, cơ bản này như sau: Bạn
có thực sự được chôn hay chưa? Đã bao giờ bạn thật sự được phân rẽ cách rõ ràng
với quá khứ - tội lỗi của nó, ách nô lệ của nó, sự nổi loạn của nó, truyền thống
sai lầm của nó, các hiệp hội gian ác của nó? Những công việc này có bị giảm hạ
và chúng không còn có thể gây rắc rối cho bạn nữa không? Sự xoay chuyển có ược tiếp
nối bởi sự sống phục sinh - một sự gia tăng để tiến lên bởi đức tin và quyền
năng của Đức Thánh Linh trong đời sống mới mẻ hay không?
Nếu câu trả lời cho những câu hỏi này là có, thì bạn đã được chôn.
Sau đó sẽ là ngu xuẩn và phi Kinh Thánh nếu đào tất cả những điều này một lần nữa
từ ngôi mộ của nó, với mục đích đơn thuần là để chôn nó lần thứ hai với một
công thức mới.
Mặt khác, nếu câu trả lời cho các câu hỏi trên không rõ ràng, thì bạn
chưa bao giờ bị chôn. Tìm kiếm Chúa một cách nghiêm túc và cầu xin Ngài cho bạn
thấy phải làm gì. Cũng có thể là Chúa sẽ yêu cầu bạn cần được chôn cất. Nếu vậy,
hãy nhớ điều này. Bạn sẽ không cần tái báp têm. Bạn đã thật sự được báp-têm lần
đầu tiên.
Nếu không có sự chôn cất và không có sự phục sinh, thì không có
phép báp têm./.