“Cầu xin chính Đức Chúa Trời bình
an thánh hóa anh em một cách toàn diện.
Cầu xin tâm linh, tâm hồn, và thân thể anh em được giữ vẹn toàn, không chỗ
trách được khi Chúa chúng ta, là Đức Chúa Jêsus Christ quang lâm!” (1
Tê-sa-lô-ni-ca. 5:23)
Phao-lô đang cầu nguyện cho những Cơ đốc nhân này được hoàn toàn thánh
hóa và ông chỉ rõ ba khu vực tạo nên toàn bộ nhân cách: tâm linh, tâm hồn và
thân thể.
Sự khác biệt giữa ba yếu tố nầy của nhân cách chúng ta hầu hết các Cơ Đốc
nhân đều ít được hiểu biết. Tuy nhiên, Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta một loại
“gương soi” duy nhất cho thấy bản chất và mối quan hệ tương tác của chúng, và
cho chúng ta thấy cách thức mỗi một phần đó hoạt động như thế nào. Không sử dụng
tấm gương này cách đúng đắn sẽ cho chúng ta thấy nhiều hư hỏng và bất hòa bên
trong.
Trong sự sáng tạo con người hồi ban đầu, Đức Chúa Trời
đã phán: “Chúng Ta hãy tạo nên loài người
theo hình ảnh Chúng Ta” và “theo sự giống nhau của chúng ta”. Hình ảnh
chỉ diện mạo bên ngoài của con người. Không đúng với bất kỳ sinh vật nào khác,
con người phản ánh diện mạo bên ngoài của Đức Chúa Trời. Vì vậy, thật là thích
hợp, khi Con của Đức Chúa Trời đã đến để ở trên trái đất, hình ảnh đó ở dưới dạng
một con người -- không phải là một con bò hay một cái chày— và thậm chí không
theo dạng một số sinh vật nào trên trời, chẳng hạn như sê-ra-phim.
“Sự giống nhau” đề cập đến bản
chất bên trong của con người. Kinh thánh đề cập đến Đức Chúa Trời như là một hữu
thể tam nhất: Cha, Con và Linh.
Tương tự như vậy, Kinh thánh cho thấy con người như là một hữu thể tam nhất, bao gồm tâm linh, tâm hồn và
thân thể.
Văn kiện sự sáng tạo con người cho thấy bản chất ba một của anh ta được hiện
hữu như thế nào: “Bấy giờ, Giê-hô-va Đức
Chúa Trời lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sinh khí vào lỗ mũi, thì người trở
nên một sinh linh"—nói cách đúng hơn nữa, một tâm hồn sống.
Tâm linh của con người đến từ hơi thở của Đức Chúa Trời truyền
vào. Thân thể của anh ta được hình thành từ đất sét, biến thành thịt của người
phàm sống động. Ngay lập tức anh ta trở thành một tâm hồn sống.
Do đó tâm hồn được hình thành là bản ngã, nhân cách cá nhân. Nó thường
được định nghĩa là bao gồm ba yếu tố: ý muốn, trí năng và tình cảm. Tâm hồn có
trách nhiệm đưa ra các quyết định cá nhân và thể hiện chính mình trong ba cụm từ:
“tôi muốn,” “tôi nghĩ,” “tôi cảm thấy.” Trừ khi được ân sủng siêu nhiên của Đức
Chúa Trời cảm động, tất cả hành vi của con người đều bị ba động cơ này kiểm chế.
Con người được tạo ra cho sự thông công cá nhân với Đức Chúa Trời, nhưng
sự không vâng lời ô tội của anh ta đã gây ra những hiệu quả thảm hại trong cả
ba yếu tố của nhân cách mình.
-
Những Hiệu Quả Của Tội Lỗi-
Bị cắt đứt khỏi sự tiếp xúc với Đức Chúa Trời, tâm linh của con người đã
chết. Điều này đã ứng nghiệm lời cảnh
báo của Đức Chúa Trời: “nhưng về cây biết
điều thiện và điều ác thì chớ hề ăn đến; vì
một mai ngươi ăn, chắc sẽ chết” (Sáng. 2:17). Tuy nhiên, sự chết vật lí
của thân thể A-đam đã xảy ra sau đó 900 năm nữa
Thông qua việc vận dụng ý muốn của mình trong sự bất tuân trực tiếp với Đức
Chúa Trời, con người đã trở thành một kẻ nổi loạn trong tâm hồn của mình. Kể từ
thời điểm đó, mọi người xuất thân từ A-đam đều đã thừa hưởng bản chất của một
người nổi loạn.
Trong Ê-phê-sô 2: 1–3, Phao-lô mô tả các kết quả của cuộc nổi loạn đã ảnh
hưởng đến mỗi người chúng ta: “Anh em đã
chết vì những vi phạm và tội lỗi của mình, là những gì mà anh em đã từng theo
đuổi khi sống theo cách của thế gian nầy, thuận theo kẻ cầm quyền chốn không
trung, là thần hiện đang hành động trong những con cái không vâng phục (nổi loạn).
Tất cả chúng ta đều ở trong số nầy, đã có lần sống theo những dục vọng của xác
thịt, theo đuổi các đam mê của xác thịt và tâm trí. Như vậy, theo bản chất tự
nhiên, chúng ta là con của sự thịnh nộ như mọi người khác”.
Là kết quả của tội lỗi, tất cả chúng ta đều đã chết trong tâm linh của
mình. Trong tâm hồn của mình, tất cả chúng ta đều đã nổi loạn chống lại Đức
Chúa Trời. Thân thể chúng ta cũng đã khuất phục sự đồi bại-- tức là bệnh tật, hư
nát và tử vong.
Tuy nhiên, tình yêu vô biên của Đức Chúa Trời là như vậy nên Ngài liên tục
mong mỏi phục hồi mối tương giao của Ngài với con người. “Hay anh em cho là vô nghĩa khi Kinh Thánh nói: “Thánh Linh mà Đức Chúa
Trời khiến ở trong lòng chúng ta thương mến chúng ta đến nỗi ghen tuông”(
Gia cơ 4:5). Hơn nữa, qua sinh tế của Chúa Giêsu trên thập tự giá, Đức Chúa Trời
đã mở đường phục hồi sự thông công đã mất.
-
Những Hiệu Quả Của Sự Cứu Rỗi-
Trong Ê-phê-sô 2: 4–5 Phao-lô tiếp tục mô tả sự vận hành của sự cứu rỗi
trong tâm linh chúng ta: “Nhưng Đức Chúa
Trời, là Đấng giàu lòng thương xót, vì yêu chúng ta bằng tình yêu cao cả, nên
ngay khi chúng ta đã chết vì những vi phạm thì Ngài khiến chúng ta cùng sống với
Đấng Christ”. Tâm linh của chúng ta được tái hiệp nhất với Đức Chúa Trời, được
sống động một lần nữa. Đồng thời, tâm hồn của chúng ta -- qua sự ăn năn và đức
tin-- được giải thoát khỏi sự nổi loạn và hòa giải với Đức Chúa Trời.
“Vì nếu khi chúng ta là kẻ thù nghịch
mà nhờ sự chết của Con Ngài, chúng ta còn được hòa giải với Đức Chúa Trời thì
huống chi nay đã được hòa giải rồi, chúng ta lại càng được cứu nhờ sự sống của
Con Ngài là dường nào. Không những thế, chúng ta lại còn vui mừng trong Đức
Chúa Trời bởi Chúa chúng ta là Đức Chúa Jêsus Christ, nhờ Ngài mà bây giờ chúng
ta nhận được sự hòa giải” (Rô ma 5:10-11).
Khi chúng ta nhận ra rằng tất cả chúng ta đều đã nổi loạn chống lại Đức
Chúa Trời, chúng ta hiểu tại sao không có thể có sự cứu rỗi chân chính mà không
có sự ăn năn. Sự ăn năn có nghĩa là hạ
cuộc nổi dậy của chúng ta xuống và chính mình thuận phục dưới quyền tể trị công
bình của Đức Chúa Trời.
Sự cứu rỗi cũng tạo ra sự dự bị cho thân thể. Sau khi được giải phóng khỏi
ách nô lệ của tội lỗi, thân thể của chúng ta trở nên đền thờ của Đức Thánh Linh
cư ngụ và các chi thể của chúng ta trở thành dụng cụ của sự công nghĩa (Rô ma
6:13). Cuối cùng khi Đấng Christ tái lâm, thân thể chúng ta sẽ được biến đổi
thành thân thể bất tử giống như thân thể của chính Đấng Christ!
-
Những Đòi Hỏi Cho Một Môn
Đồ-
Chúa Jêsus đã ủy nhiệm cho các sứ đồ
của Ngài phải môn đồ hóa tất cả các dân tộc. Ngài đã không bảo họ tạo dựng các
thành viên hội thánh. Tư cách môn đồ đòi hỏi một sự đáp ứng căn bản trong từng
lĩnh vực của nhân cách — thân thể, tâm hồn và tâm linh .
Yêu cầu đối với thân thể của chúng ta được trình bày trong Rô-ma 12: 1:
“Tôi nài xin anh em dâng thân thể mình
làm sinh tế sống, thánh khiết và đẹp lòng Đức Chúa Trời. . .”. Chúng ta được
yêu cầu trình dâng thân thể của mình trên bàn thờ, làm sinh tế cho Đức Chúa Trời
cũng hoàn toàn giống như người Y-sơ-ra-ên dưới giao ước cũ dâng hiến các loài động
vật làm sinh tế trên bàn thờ của họ. Tuy nhiên, có một khác biệt quan trọng.
Người Y-sơ-ra-ên đã giết những con vật
mà họ dâng cho Đức Chúa Trời. Ngày nay thân thể chúng ta dâng cho Đức Chúa Trời
là một sinh tế sống.
Tuy nhiên, từ thời điểm đó trở đi, thân thể của chúng ta không còn thuộc
về mình nữa. Chúng là tài sản của Đức Chúa Trời, là đền thờ của Đức Chúa Trời.
Chúng ta chỉ là những người quản lý phải khai trình cho Đức Chúa Trời về cách
mà chúng ta đã chăm sóc ngôi đền thờ của
Ngài. Thật không may, quá nhiều Cơ Đốc nhân ngày nay tiếp tục đối xử với thân
thể của họ như thể họ vẫn còn quyền sở hữu chúng và tự do dùng thân thể mình
làm bất cứ điều gì họ vui thích.
Liên quan đến tâm hồn của chúng ta, Chúa Jêsus đã tuyên bố đòi hỏi của
Ngài trong Ma-thi-ơ 16: 24–25: “Nếu ai muốn
theo Ta thì phải từ bỏ chính mình (nghĩa đen là tâm hồn minh), vác thập tự giá
mình mà theo Ta. Vì bất cứ ai muốn cứu mạng sống (tâm hồn) mình thì sẽ mất, còn
ai vì Ta mà mất mạng sống (tâm hồn) thì sẽ tìm lại được”.
Thập tự giá của chúng ta là nơi chúng ta chọn để mình chịu chết. Đức
Chúa Trời không áp đặt điều này cho chúng ta. Chúng ta chỉ tiếp lấy nó bằng ý
muốn tự do của riêng mình. Chính ở đây chúng ta phải phủ nhận tâm hồn của mình.
Điều này có nghĩa là chúng ta nói “không” với ba yêu cầu của tâm hồn: “tôi muốn,”
“tôi nghĩ,” “tôi cảm thấy.” Từ nay, chúng ta không còn bị ba động cơ này kiểm
soát nữa. Chúng được sống theo lời của Đức Chúa Trời và ý muốn của Đức Chúa Trời.
Khi chúng ta tuân theo lời và ý muốn của Đức Chúa Trời, chúng ta tìm thấy sự sống
mới mà Chúa Giêsu ban cho chúng ta. Chỉ qua cái chết mà tâm hồn chúng ta mới có
thể tìm thấy sự sống tươi mới này.
Khi chúng ta đáp ứng những yêu cầu của Chúa, vì thân thể, tâm hồn, và
tâm linh của chúng ta được tự do tham gia vào mối tương giao với Đức Chúa Trời
thậm chí còn tuyệt vời hơn những gì đã mất trong sự sa ngã. Trong 1 Cô-rinh-tô
6: 15–17, Phao-lô cảnh báo các Cơ Đốc nhân chống lại sự kết hiệp tình dục vô
luân với gái điếm, bởi vì điều này có nghĩa là trở thành một thân thể với gái
điếm. Sau đó, trong sự tương phản trực tiếp, ông tiếp tục, "còn ai kết hợp với Chúa thì sẽ trở nên một
tâm linh với Ngài" (1 Cor. 6:17).
Hàm ý nầy là rõ ràng. Tâm linh được cứu chuộc bây giờ có thể tận hưởng một
sự kết hợp với Đức Chúa Trời, gần gũi và thân mật như sự kết hợp tình dục với một
gái điếm của thân thể con người vậy. Tuy nhiên, đó chỉ là kết hợp của tâm linh,
không phải kết hợp với tâm hồn hay thân thể - mà có thể trải nghiệm sự liên kết
mật thiết trực tiếp này với Đức Chúa Trời.
Điều đó chủ yếu thông qua hành động thờ phượng mà tâm linh của chúng ta
bước vào sự liên hiệp này với Đức Chúa Trời. Trong Giăng 4: 23–24 Chúa Giê Su
nói: “những người thờ phượng chân thật sẽ
thờ phượng Cha bằng tâm linh và chân lý; ấy là những người thờ phượng mà Cha
tìm kiếm. Đức Chúa Trời là thần linh, nên những người thờ phượng Ngài phải thờ
phượng bằng tâm linh và chân lý”. Ngài nói rõ rằng sự thờ phượng thật sự phải
là một hoạt động của tâm linh chúng ta.
Trong hội thánh hiện đại, có rất ít sự hiểu biết về bản chất sự thờ phượng,
chủ yếu bởi vì chúng ta không phân biệt được sự khác biệt giữa tâm linh và tâm
hồn. Thờ phượng không phải là sự giải trí. Điều đó thuộc về nhà hát, không phải
hội thánh. Cũng không chỉ tôn thờ bằng lời
khen ngợi. Chúng ta ca ngợi Đức Chúa Trời bằng tâm hồn của mình, và có quyền
làm như vậy. Qua lời khen ngợi của mình, chúng ta có quyền tiếp cận sự hiện diện
của Đức Chúa Trời. Nhưng một khi chúng ta bước vào trong sự hiện diện của Ngài,
là qua sự thờ phượng mà chúng ta được vui hưởng sự thông công thuộc linh đích
thực với Ngài.
Có thể thờ phượng Đức Chúa Trời theo cách này là mục tiêu của sự cứu rỗi—
trước tiên trên trái đất nầy, và sau đó trên thiên đàng. Đây là hoạt động cao
nhất và thánh khiết nhất mà con người có khả năng. Tuy nhiên, điều đó chỉ có thể
xảy ra khi tâm hồn và thân thể thuận phục tâm linh và hòa hợp với nó. Sự thờ
phượng như vậy thường quá sâu sắc nếu phải dùng lời nói diễn tả. Điều đó trở
thành một sự liên hiệp mãnh liệt và im lặng với Đức Chúa Trời.