Sự thánh khiết là một thuộc tính duy nhất của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời
có nhiều thuộc tính khác - chẳng hạn như tình yêu, sự khôn ngoan và quyền năng
- mà chúng ta có thể hiểu ở mức độ nào đó bằng cách tham khảo đến con người hay
các sự vật trong lãnh vực thiên nhiên thể hiện những thuộc tính này. Nhưng đức
thánh khiềt không có sự song hành trong thiên nhiên; điều đó là duy nhất. John
Wesley đã định nghĩa sự thánh khiết là “tình yêu trọn vẹn”. Tuy nhiên, tôi muốn
định nghĩa sự thánh khiế như một sự kết hợp giữa sự công bình của Đức Chúa Trời
và tình yêu của Đức Chúa Trời. Tình yêu mời bạn đến; sự công bình nói rằng bạn
không thích hợp để đến. Có sự căng thẳng được xây dựng trong sự thánh khiết
này.
-Một
đặc điểm của dân Đức Chúa Trời
Lời của Đức Chúa Trời nói với chúng ta rằng sự thánh khiết là một đặc điểm
của dân Đức Chúa Trời. Hãy xem xét Hê-bơ-rơ 12: 9–10:
“Hơn nữa, cha về phần xác sửa phạt
mà chúng ta còn kính sợ,huống chi Cha về phần hồn, chúng ta lại chẳng thuận phục
bội phần hơn để được sống hay sao? Vì
cha về phần xác theo ý mình sửa phạt chúng ta tạm thời, nhưng Đức Chúa Trời vì
ích lợi cho chúng ta mà sửa phạt, để chúng ta được dự phần trong sự thánh khiết
của Ngài”.
Khát vọng của Đức Chúa Trời là chúng ta có thể dự phần vào sự thánh khiết
của Ngài. Câu 14 của Hê-bơ-rơ 12 bổ sung, “Hãy
tìm cách sống hòa thuận với mọi người và đeo đuổi sự thánh khiết; vì nếu không
thánh khiết thì chẳng ai thấy được Chúa”. Thứ nhất, chúng ta phải theo đuổi
sự thánh khiết— chúng ta làm cho điều đó trở thành mục tiêu. Thứ hai, để đạt được
sự thánh khiết, chúng ta phải theo đuổi sự hòa bình với tất cả mọi người. Chúng
ta cố gắng sống một cách hòa bình, không cho phép cãi vã hoặc sự bất hòa mà nằm
trong khả năng tránh né của chúng ta. Tác giả thơ Hê-bơ-rơ ở đây cũng đưa ra một
lời cảnh báo rất nghiêm trang. Ông nói rằng chúng ta sẽ không thấy Chúa, trừ
khi chúng ta trở thành một người dự phần đức thánh khiết của Ngài.
Câu Kinh thánh thứ hai thể hiện khát vọng của Đức Chúa Trời đối với sự
thánh khiết trong dân của Ngài là 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4: 3: “Vì ý muốn của Đức Chúa Trời là anh em phải được thánh hóa”. Chính
xác, đây là sự thánh hóa không?
Ở một mức độ nào đó, ngôn ngữ tiếng Anh che khuất ý nghĩa thực sự của từ
ngữ này. Bất kỳ động từ Anh ngữ nào kết thúc với chữ -ify có nghĩa là "để
gây ra, để trở thành" điều mà đứng trước nó. Ví dụ, thanh lọc có nghĩa là
"làm cho tinh khiết," có nghĩa rõ ràng là "để làm cho rõ ràng" sửa
chữa lại thì có nghĩa là "để làm cho đúng". Do nguồn gốc,, chữ sanct
là giống như chữ saint (thánh đồ); và thánh đồ, lần lượt, cũng giống như thánh
khiết. Tất cả ba từ — thánh hóa, thánh đồ, thánh khiết - đều có nguồn gốc một từ
tiếng Hy Lạp cơ bản, có nghĩa là sự thánh khiết. Rất đơn giản, do đó, sự thánh
hóa là "quá trình làm cho thánh khiết".
Do đó, chúng ta có thể dịch chính xác 1 Tê-sa-lô-ni-ca 4: 3, “Vì đây là ý muốn của Đức Chúa Trời, rằng bạn
được làm cho thánh khiết” Câu 4 tiếp tục, “mỗi người phải biết gìn giữ thân thể (bình) mình cho thánh sạch [một điều
kiện của sự thánh thiện] và tôn trọng”. Một cách thích hợp, câu này chứa đựng
một cụm từ đã trở nên quen thuộc với tiếng Anh hiện đại: “biết cách làm thế nào”.
Cần biết cách theo kinh thánh để đạt được
điều kiện của sự thánh khiết.
Chiếc bình của một người là cơ thể của anh ta – bình đất của tâm linh con
người. Nhiều Cơ đốc nhân nói như thể thân thể là điều gì đó xấu xa - một điều
gì đó đáng xấu hổ. Thân thể không xấu xa, nó tốt. Đó là một trong những thành tựu
tối thượng trong thiên tài sáng tạo của Đức Chúa Trời. Nói về thân thể của
chính mình, vua Đa-vít đã nói, “tôi được
dựng nên một cách đáng sợ và lạ lùng” (Thi Thiên 139: 14). Đa-vít nhìn thấy những điều kỳ diệu của cơ thể mình với
sự kinh ngạc và hãi hùng.
Tại sao các tín đồ nên biết cách giữ thân thể mình trong tình trạng
thánh khiết? Chúng ta có thể trả lời điều này bằng cách kết hợp hai câu kinh
thánh: “Nhưng Đấng Chí Cao chẳng ở trong
nhà bởi tay người ta làm ra” (Công vụ 7: 48); và “Anh em không biết rằng thân thể anh em là đền thờ của Đức Thánh Linh
đang ngự trong anh em sao?” (1 Cô-rinh-tô 6:19). Đức Chúa Trời đã ấn định một
ngôi đền trên trái đất để ở. Nó không phải là một ngôi đền được làm bằng tay,
mà là thân thể của những người tin Chúa. Do đó, mỗi người trong chúng ta cần phải
biết cách giữ cho cơ thể của mình trong tình trạng phù hợp để Đức Chúa Trời ngự
ở bên trong.
- Tác Nhân Của
Sự Thánh Hóa-
Kinh Thánh hình dung ra sự chấm dứt của
sự thánh hóa như thế nào, và phần nào chúng ta cư xử trong đó? Như tôi đã hiểu,
có năm tác nhân của sự thánh hóa.
1. Đức Thánh
Linh
Không có Đức Thánh Linh— hay Linh của sự thánh khiết như Ngài được kêu gọi
bằng tiếng Hê-bơ-rơ - không có hy vọng về việc chúng ta được nên thánh khiết.
“Thưa anh em là những người yêu dấu
của Chúa, chúng tôi buộc phải luôn luôn cảm tạ Đức Chúa Trời về anh em, vì từ
ban đầu Ngài đã chọn để ban sự cứu rỗi cho anh em,qua sự thánh hóa bởi Thánh
Linh và lòng tin vào chân lý”(2 Tê-sa-lô ni ca 2:13)
Trong sự thánh hóa, như trong mọi quá trình cứu chuộc, đề xuất là do Đức
Chúa Trời. Điều đó bắt đầu với sự lựa chọn của Đức Chúa Trời của chúng ta, được
thực hiện trong cõi đời đời. Sau đó, chuỗi các sự kiện trong cõi thời gian như
sau.
• Đức Thánh Linh bắt đầu gây ảnh hưởng
đến chúng ta.
• Ngài kéo chúng ta ra khỏi con đường
rộng mà sẽ dẫn đến sự hủy diệt (Ma-thi-ơ 7:13).
• Ngài mang đến cho chúng ta mặt đối
mặt với sự thật (trong chính phương diện cuối cùng là chính Ngài là sự thật)
• Ngài truyền đạt cho chúng ta đức
tin để tin sự thật
• Thông qua việc tin vào lẽ thật
chúng ta bước vào sự cứu rỗi.
Trong Ê-phê-sô 2: 8 Phao-lô nói với chúng ta rằng chúng ta “được cứu bởi đức tin”, và rồi nhắc nhở
chúng ta rằng đức tin này không đến từ chính chúng ta, nhưng được truyền cho
chúng ta như một món quà của Đức Chúa Trời.
Trong ý nghĩa này, chúng ta có thể định nghĩa sự thánh hóa như “được biệt
riêng cho Đức Chúa Trời”. Trong nhiều trường hợp, quá trình sự thánh hóa trở
nên lâu dài trước khi chúng ta đích thân đến chỗ biết Đức Chúa Trời. Sứ đồ Phao-lô nói rằng ông
đã được biệt riêng từ trong lòng mẹ mình (Ga-la-ti 1:15); và Đức Chúa Trời phán
với Giê-rê-mi rằng Ngài đã thánh hóa ông trong bụng mẹ ông (Giê-rê-mi 1: 5). Đức Chúa Trời bắt đầu biệt
riệng chúng ta cho chính Ngài từ lâu trước khi chúng ta có bất kỳ kiến thức
nào về điều đó.
1 Phi-e-rơ 1: 2 trình bày một bức
tranh tương tự về quá trình:
“Là những người được chọn lựa theo sự biết trước của Đức Chúa Trời là Cha,
và được thánh hóa bởi Thánh Linh, để vâng phục Đức Chúa Jêsus Christ và dự phần
trong sự rảy huyết Ngài”.
Sự lựa chọn của Đức Chúa Trời, được thực hiện trong cõi đời đời, được dựa
trên sự biết trước của Ngài -- nó không bao giờ tùy ý, không bao giờ ngẫu
nhiên. Sự thánh hóa là quá trình mà Đức Thánh Linh kéo chúng ta sang một bên để
đối mặt với những đòi hỏi của Đấng
Christ. Đức Thánh Linh ban cho chúng ta ân điển để vâng phục Tin Lành
và, khi chúng ta vâng lời, huyết của Chúa Jêsus được rải lên chúng ta.
Trong cả hai phân đoạn trên —2 Tê. và 1 Phi-e-rơ — đề xuất trong tiến
trình thánh hóa là với Đức Chúa Trời, không phải con người, và tác nhân đầu
tiên trong tiến trình nầy là Đức Thánh Linh .
2--Lời
Trong Ê-phê-sô 5: 25–26, chúng ta tìm thấy tác nhân thứ hai của sự thánh
hóa: “Đấng Christ đã yêu Hội Thánh, xả
thân vì Hội Thánh để thánh hóa Hội Thánh
sau khi dùng nước và lời Ngài thanh tẩy Hội Thánh”.
Trong Cựu Ước, sau khi đổ máu, mọi sinh tế đều phải được rửa sạch bằng
nước tinh khiết. Trong Tân ước 1 Giăng 5: 6 nói rằng Chúa Jêsus đến "bằng nước và huyết" Máu là huyết cứu
chuộc của Đấng Christ đổ trên thập tự giá, và nước là nước tinh sạch của Lời. Đấng
Christ cứu chuộc chúng ta bằng huyết của Ngài; sau đó Ngài thánh hóa và thanh tẩy
chúng ta bằng cách rửa nước bởi Lời.
Chúa Jesus đã cầu nguyện với Đức Chúa Cha cho các môn đồ của Ngài: “Xin Cha dùng chân lý thánh hóa họ. Lời của
Cha là chân lý”(Giăng 17:17). Một trong những cách chính trong đó Lời của Đức
Chúa Trời thánh hóa chúng ta là nó thay đổi lối suy nghĩ của chúng ta. Sự thánh
hóa tiến triển từ bên trong ra bên ngoài; không phải từ bên ngoài vào bên
trong. Phương cách thánh hóa của tôn giáo là mặc trang phục cho dài, không mặc
quần áo trên đầu gối, cắt tóc ngắn, và
lau sạch son trên môi. Nhưng Phao-lô nói, “phải được biến đổi bởi sự đổi mới của
tâm trí mình, để phân biệt đâu là ý muốn tốt đẹp, vừa lòng và trọn vẹn của Đức
Chúa Trời” (Rô-ma 12: 2) và, “đổi mới
trong tâm linh của tâm trí anh em” (Ê-phê-sô 4:23- bản ASV). Chính Đức
Thánh Linh làm mới tâm trí chúng ta. Ngài làm điều đó qua lẽ thật, là Lời của Đức
Chúa Trời.
Chúng ta thường sử dụng thuật ngữ “tẩy não” theo nghĩa xấu. Tuy nhiên, từ
ngữ đó sẽ phù hợp để mô tả cách thức mà Đức Thánh Linh đổi mới tâm trí của
chúng ta, rửa sạch chúng bằng nước sạch của Lời Đức Chúa Trời.
3--Đức Tin
Đây là ủy nhiệm lớn lao của Phao-lô từ
Chúa Jêsus Christ khi ông được sai đến dân ngoại: “để mở mắt họ, chuyển họ từ tối tăm qua sáng láng, từ quyền lực của
Sa-tan trở về cùng Đức Chúa Trời; hầu cho bởi đức tin nơi Ta (Chúa), họ nhận được
sự tha tội và hưởng phần gia tài cùng với các thánh đồ” (Công vụ 26:18). Một
yếu tố không thể thiếu trong việc được thánh hóa là niềm tin của chúng ta. Thần
Linh của Đức Chúa Trời và Lời của Đức Chúa Trời không bao giờ thay đổi, nhưng
đó là đức tin của chúng ta giúp chúng ta tiếp nhận được những gì Đức Chúa Trời ban
cho qua những tác nhận này. Quá trình thánh hóa sẽ chỉ có hiệu quả khi đức tin
của chúng ta cho phép.
Hơn nữa, có một sự liên kết trực tiếp giữa Lời của Đức Chúa Trời và đức
tin của chúng ta, bởi vì “đức tin đến từ
những điều người ta nghe, mà người ta nghe là khi lời của Đấng Christ được rao
giảng” (Rô-ma 10:17). Chúng ta càng chú ý đến Lời của Đức Chúa Trời, đức
tin của chúng ta càng mở rộng, giúp chúng ta có khả năng chiếm đoạt toàn bộ sự
dự bị mà Đức Chúa Trời đã làm cho cho
chúng ta thánh khiết.
4.Huyết Của Chúa Jesus
Hê-bơ-rơ 13:12 nói: “Vì lý do đó,
Đức Chúa Jêsus đã chịu khổ ngoài cổng thành để lấy huyết mình thánh hóa dân
chúng”. Chúa Giê-su đã đổ huyết Ngài
cho nhiều mục đích. Một là cứu chuộc chúng ta. Mục đích khác là thánh hóa hoặc biệt
riêng chúng ta cho Đức Chúa Trời và làm
cho chúng ta thánh khiết.
Có thể sống ở một nơi mà tội lỗi và Sa-tan không thể chạm vào chúng ta bởi
vì chúng ta được huyết của Chúa Jêsus bảo vệ và thánh hóa . “Nhưng nếu chúng ta bước đi trong ánh sáng,
cũng như chính Ngài ở trong ánh sáng, thì chúng ta được tương giao với nhau, và
huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Ngài, tẩy sạch mọi tội của chúng ta” (1 Giăng
1: 7). Thì của động từ được sử dụng trong câu Kinh thánh này là thì hiện tại tiếp
diễn: Nếu chúng ta liên tục bước đi trong ánh sáng, chúng ta có thể có sự thông
công và huyết của Chúa Giêsu liên tục giữ gìn cho chúng ta sạch sẽ. Chúng ta được
giữ tinh khiết và không bị nhơ bẩn, vì chúng ta sống trong một yếu tố khác.
Chúng ta không sống trong sự ô nhiễm và đồi bại của thế giới tà ác này. Chúng
ta được phân rẽ Đức Chúa Trời, được thánh hóa, được huyết của Chúa Jêsus biệt
riêng.
Điều này dẫn chúng ta đến một câu Kinh Thánh quan trọng khác: “Chúng ta biết rằng ai sinh bởi Đức Chúa Trời
thì không phạm tội, vì Đấng sinh bởi Đức Chúa Trời gìn giữ người ấy, và ma quỷ
không đụng đến người ấy được” (1 Giăng 5:18).
Đây là thách thức -- gần như kinh khủng. Liệu Giăng có ngụ ý là một người
đã được sinh ra một lần nữa không bao giờ phạm tội sau đó chăng? Các đoạn văn
khác của kinh thánh, cùng với kinh nghiệm của chúng ta, làm cho việc giải thích
này không có khả năng xảy ra. Chìa khóa để hiểu câu này, tôi tin rằng, là để thấy
rằng ở đây Giăng không nói về một cá nhân, nhưng về một bản chất. Không phải
anh Nam hay chị Phương không thể phạm tội; nhưng đó là bản chất mới mà mỗi tín
đồ nhận được qua sự tái sinh không thể phạm tội.
1 Phi-e-rơ 1:23 nói với chúng ta rằng bản chất mới này là “được tái sinh, không phải bởi hạt giống dễ
hư hoại, nhưng bởi hạt giống không hề hư hoại, đó là lời hằng sống và bền vững
của Đức Chúa Trời”. Trong mọi hình thức của cuộc sống, có một nguyên tắc
không bao giờ thay đổi. Bản chất của hạt giống xác định bản chất của cuộc sống
đến từ hạt giống đó. Hạt táo tạo ra quả táo, không phải quả cam. Hạt giống
không hư nát của Lời của Đức Chúa Trời tạo ra một bản chất giống như hạt giống,
không thể bị hư hoại. Bản chất này là “người mới.” Anh ta không thể hư thối. Anh ta không phạm tội. Điều
này không đúng với bất kỳ tín đồ cá nhân nào, được xem như một nhân cách tổng
thể, nhưng nó là sự thật của “người mới” trong mọi tín đồ.
Điều này phù hợp với 1 Giăng 3: 9: “Ai
do Đức Chúa Trời sinh ra thì không phạm tội, vì hạt giống của Đức Chúa Trời ở
trong người ấy; người ấy không thể cứ phạm tội, vì đã được Đức Chúa Trời sinh
ra”. Ngôn ngữ của Giăng ở đây thậm chí còn mạnh mẽ hơn. Ông ta nói không chỉ
đơn thuần là một người như vậy không phạm tội, mà là anh ta không thể phạm tội.
Tại sao không? Bởi vì hạt giống không hư nát của Lời của Đức Chúa Trời, ở trong người, đã tạo
ra một bản chất giống như hạt giống - không thể bị hư hoại. Người mới không thể
bị tội lỗi làm hư hỏng .
Cách giải thích này được xác nhận bằng cách so sánh ba phân đoạn khác
nhau trong các tác phẩm của sứ đồ Giăng. 1 Giăng 3: 9 nói, “Ai do Đức Chúa Trời sinh ra thì không phạm tội”.
Giăng 3: 6 nói, “Điều gì do xác thịt sinh
ra là xác thịt, điều gì bởi Thánh Linh sinh ra là linh”. Cuối cùng, 1 Giăng
5: 4 nói, “Vì ai sinh bởi Đức Chúa Trời
thì chiến thắng thế gian”. Đặt ba câu Kinh Thánh này lại với nhau, chúng ta
có một ai đó, một điều đó, và một điều gì đó. Điều đó không phải là một cá nhân
được nói đến, nhưng bản chất được sự tái sinh sản sinh trong mọi tín đồ. Bản chất
mới này không có thể bị hư hỏng và không thể thất bại được. Nó không phạm tội
và nó không thể phạm tội.
Một khi tôi được sinh ra lần nữa, tiến trình mà cuộc sống của tôi phụ
thuộc vào bản chất nào kiểm soát tôi - người mới hay người cũ. Nếu tôi bị đánh
bại, đó là bởi vì tôi không đối mặt nan đề của mình bằng bản chất mới. Bản chất
mới là bất khả chiến bại. Một phụ nữ lớn tuổi có sự chiến thắng đáng để ý trong
cuộc đời cô đã từng được hỏi làm sao cô đã đắc thắng sự cám dỗ. Cô trả lời,
“Khi ma quỷ gõ cửa, tôi chỉ để Chúa Jêsus trả lời.” Đây là người mới — Đấng
Christ trong tôi.
Sa-tan chỉ có thể chạm vào người cũ. Đức Chúa Trời đã tạo nên bản chất
xác thịt của con người từ bụi đất, và khi con người phạm tội, Đức Chúa Trời đã
phán với con rắn rằng từ nay người sẽ ăn bụi đất. Bản chất xác thịt là con mồi
hợp pháp của Sa-tan, nhưng hắn không thể chạm vào bản chất mới. Người mới không
thể phạm tội được, không thể bị hư hỏng, không thể bị đánh bại, không thể bị Sa-tan làm rung động.
Chúng ta hãy quay trở lại 1 Giăng 5:18 một thời gian ngắn, “Chúng ta biết rằng ai sinh bởi Đức Chúa Trời
thì không phạm tội, vì Đấng sinh bởi Đức Chúa Trời gìn giữ người ấy, và ma quỷ
không đụng đến người ấy được”. Điều này đặt trách nhiệm cho mỗi người chúng
ta, khi được sinh ra lần nữa. Chúng ta được yêu cầu giữ mình. Làm sao? Dưới huyết.
Và chúng ta làm điều này bằng cách bước đi trong ánh sáng, vì Giăng 1: 7 nói, “Nhưng nếu chúng ta [liên tục] bước đi trong
ánh sáng, …huyết của Đức Chúa Jêsus, Con Ngài, [liên tục] tẩy sạch mọi tội của
chúng ta”. Bước đi trong ánh sáng, giữ cho chính mình dưới huyết, người mới
sống trong một lãnh vực mà Sa-tan không thể tiếp cận anh ta. Người không thể hư
hoại được, không thể thất bại, được phân rẽ khỏi mọi quyền lực và sự ô nhiễm tà
ác bởi huyết của Đấng Christ.
5--Bàn Thờ
Tác nhân thứ năm của sự thánh hóa mà theo một nghĩa nào đó là chìa khóa
thực hành -- nơi sự thánh hóa. Trong Ma-thi-ơ 23: 16–17, Chúa Giê Su khiển
trách việc dạy dỗ các thầy thông giáo, “Khốn
cho các ngươi, những kẻ dẫn đường mù quáng, các ngươi bảo rằng: ‘Nếu người nào
chỉ đền thờ mà thề thì không can gì; nhưng nếu chỉ vàng của đền thờ mà thề thì
bị ràng buộc.’ Hỡi những kẻ ngu dại mù quáng kia! Vàng hay đền thờ làm cho vàng
nên thánh, cái nào trọng hơn?” Jesus nói rằng vàng không phải là thánh khiết
trong chính nó; nó chỉ là kim loại. Nhưng khi nó được xây dựng vào trong đền thờ
của Đức Chúa Trời, nó sẽ trở nên thánh thiện. Ngôi đền làm cho nó thánh khiết.
Trong câu 18 và 19 Ngài tiếp tục, “Các
ngươi bảo rằng: ‘Nếu người nào chỉ bàn thờ mà thề thì không can gì, nhưng nếu
chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề thì bị ràng buộc.’ Hỡi những kẻ mù quáng! Lễ vật
hay bàn thờ làm cho lễ vật nên thánh, cái nào trọng hơn?”Món quà không
thánh hóa bàn thờ, nhưng bàn thờ thánh hóa món quà được đặt trên đó.
Trong Cựu Ước, cho đến khi sinh tế được đặt trên bàn thờ, nó chỉ là thi
thể của một con thú. Nhưng khi nó được đặt trên bàn thờ và gắn kết với bàn thờ,
nó trở thành thánh khiết, được biệt riêng cho Chúa. Điều này cũng đúng với tín
đồ của Tân ước. Phao-lô nói, “Vậy thưa
anh em, bởi sự thương xót của Đức Chúa Trời, tôi nài xin anh em dâng thân thể
mình làm sinh tế sống, thánh khiết và đẹp lòng Đức Chúa Trời, đó là sự thờ phượng
phải lẽ(u) của anh em” (Rô-ma 12: 1). Tôi tin rằng sự khác biệt duy nhất giữa
sinh tế của Cựu Ước và sinh tế Tân Ước là cơ thể chúng ta còn sống khi chúng ta
đặt chúng trên bàn thờ. Nhưng trong mỗi trường hợp, nguyên tắc thánh hóa là như
nhau. Đó là bàn thờ thánh hóa của lễ được đặt trên đó.
Hãy lưu ý kỹ hành động này là giao nộp cơ thể cho Đức Chúa Trời cặp theo với với quá trình thánh hóa bên trong tâm trí của chúng ta. Trong câu 2, Phao-lô tiếp tục, “Đừng khuôn rập theo đời nầy, nhưng phải được
biến hóa bởi sự đổi mới của tâm trí mình, để phân biệt đâu là ý muốn tốt đẹp, vừa
lòng và trọn vẹn của Đức Chúa Trời”. Sự thay đổi bên trong trong suy nghĩ
và động cơ của chúng ta không thể đạt được cho đến khi chúng ta từ bỏ tất cả
các quyền trên cơ thể của chính mình và đặt chúng cách dứt khoát trên bàn thờ của
Đức Chúa Trời, để được sử dụng như Đức Chúa Trời mong muốn.
Chúng ta tóm tắt xem xét một phần ngắn gọn từng phần của năm tác nhân
này trong sự thánh hóa của chúng ta. Đức Thánh Linh kéo chúng ta riêng ra xa và
đưa chúng ta đến nơi tin và tuân theo Tin Mừng. Lời của Đức Chúa Trời, giống
như nước tinh khiết, rửa sạch tâm trí của chúng ta, thay đổi suy nghĩ và thái độ
của chúng ta và các tiêu chuẩn, đưa chúng vào sự đồng hóa với các tiêu chuẩn của
Đức Chúa Trời. Đức tin của chúng ta, đến từ việc nghe Lời của Đức Chúa Trời, cho
chúng ta có sức chiếm hữu sự dự bị đầy đủ của Đức Chúa Trời cho chúng ta. Khi
chúng ta tiếp tục bước đi trong sự vâng phục, huyết của Chúa Jesus giữ chúng ta
ở một nơi biệt riêng cho Đức Chúa Trời, nơi tội lỗi và Sa-tan không thể làm ô uế
hoặc đánh bại chúng ta. Cuối cùng, bàn thờ của dịch vụ thánh hóa sinh tế sống của các cơ thể chúng ta, khi
chúng ta đặt chúng không dè sẻn theo ý sử dụng của Đức Chúa Trời.
Do đó với tâm trí của chúng ta được đổi
mới, chúng ta cảm nhận và chiếm lấy với ý muốn hoàn hảo của Đức Chúa Trời dành
cho chúng ta - rằng chúng ta là một người thánh, được thánh hóa, phân rẽ cho Đức
Chúa Trời - những người dự phần sự thánh khiết của Ngài.