Chủ Nhật, 7 tháng 10, 2018

ĐỨNG CHỖ SỨT MẺ



  “Vậy, trước hết ta khuyên dặn con phải dâng lời khẩn nguyện, cầu xin, cảm tạ và cầu thay cho mọi người” (1 Ti-mô-thê 2: 1) .Phao-lô nói với chúng ta rằng ưu tiên hàng đầu của một hội thánh Cơ đốc là sự cầu nguyện. Ông đề cập đến nhiều hình thức cầu nguyện khác nhau, một hình thức trong đó là sự cầu thay. Cầu thay là nói giùm, là can thiệp giùm. Can thiệp có nghĩa là "chen vào giữa hai bên". Người cầu thay là một người chen vào giữa Đức Chúa Trời và những người xứng đáng chịu sự phẫn nộ và trừng phạt của Ngài. Người cầu thay giơ tay lên với Đức Chúa Trời và nói, “Đức Chúa Trời ơi, những người nầy xứng đáng chịu sự phán xét của Ngài; Ngài có mọi quyền phạt họ; nhưng nếu Ngài đánh đập họ, xin Ngài nên đập con trước, bởi vì con đang đứng giữa Ngài và họ”.

  Trong kinh Cựu Ước, chúng ta thấy nhiều văn kiện khác nhau của các thành phố và quốc gia được dung tha sự phán xét thần thượng thông qua chức vụ của một người cầu thay. Chúng ta sẽ nghiên cứu một số ví dụ này, nhưng trước tiên, chúng ta hãy xem xét chức vụ cầu thay trong đời sống của Chúa chúng ta, Jesus Christ.
--Sự cầu thay trong cuộc sống của Chúa Jesus
  Sự cầu thay là một trong những dấu hiệu lớn lao của chức vụ Chúa Jesus. Chương 53 của sách Ê-sai đưa ra một mô tả về công việc chuộc tội của Ngài, kết thúc bằng câu 12: nói rằng “Vì thế, Ta sẽ chia phần cho Người đồng với những người lớn. Người sẽ chia chiến lợi phẩm với những kẻ mạnh; Vì Người đã đổ mạng sống mình cho đến chết, Đã bị liệt vào hàng tội nhân, Đã mang lấy tội lỗi nhiều người, Và cầu thay cho những kẻ phạm tội”.
  Có bốn điều được ghi chép ở đó về Chúa Jesus. Thứ nhất, Ngài đã đổ tâm hồn mình ra cho đến chết. Lê-vi-ký 17:11 chép tâm hồn của mọi xác thịt ở trong máu, nên Chúa Jesus đổ tâm hồn mình ra cho đến chết, là khi Ngài đổ huyết mình ra. Thứ hai, Ngài bị kể vào hàng những kẻ phạm pháp, khi Ngài bị đóng đinh chung với hai tên trộm cướp. Thứ ba, Ngài mang tội lỗi của nhiều người; Ngài trở thành của lễ chuộc tội  cho tất cả chúng ta. Thứ tư, Ngài cầu thay cho những người quá phạm; Ngài đã làm điều nầy trên thập tự giá khi Ngài thưa: “Lạy Cha, xin tha thứ cho họ, vì họ không biết họ làm gì” (Lu-ca 23:34). Ngài nói, “Sự phán xét là xứng đáng dành cho họ, hãy giáng điều đó trên con” Và điều đó đã xảy ra.
  Hê-bơ-rơ 7 nói về việc Chúa Jêsus sau khi Ngài đã chết, phục sinh và thăng thiên. Chúng ta được biết rằng Chúa Jêsus là thầy tế lễ thượng phẩm của chúng ta ngồi bên tay phải của Đức Chúa Trời. Bởi vì Ngài có một chức tư tế không thể thay đổi được, không bao giờ có ai vượt qua Ngài, “Bởi đó, Ngài có thể cứu toàn vẹn những người nhờ Ngài mà đến gần Đức Chúa Trời, vì Ngài hằng sống để cầu thay cho những người ấy” (Hê-bơ-rơ 7:25)
  Nếu chúng ta nghiên cứu về cuộc sống và chức vụ của Chúa Jesus, chúng ta sẽ đạt được một sự so sánh khá thú vị: Ngài trải qua ba mươi năm trong bóng tối trong cuộc sống gia đình hoàn hảo; ba năm rưỡi trong chức vụ công khai đầy kịch tính; và gần hai ngàn năm trong sự cầu thay, không mắt người thường nào nhìn thấy. Từ khi Ngài thăng thiên, Ngài đã cầu thay cho chúng ta trước mặt Cha.
--Các Khuôn Mẫu Cựu Ước – Áp-ra-ham
   Các thánh đồ vĩ đại nhất thường là những người cầu thay lớn nhất vì họ là những người gần gũi với tấm lòng của Đức Chúa Trời nhất. Kinh Cựu Ước bao gồm các ví dụ về một số người cầu thay tuyệt vời.
  Trong Sáng Thế Ký 18, chúng ta tìm thấy Chúa với hai thiên thần, đến thăm lều của Áp-ra-ham. Vào cuối chuyến viếng thăm của Ngài, Chúa phán: “Lẽ nào Ta giấu Áp-ra-ham điều Ta sắp làm sao?” (Câu 17). Nói cách khác, Chúa xem Áp-ra-ham như một người bạn thân thiết của Ngài mà Ngài sẽ chia sẻ ý nghĩ và kế hoạch của mình. Vì vậy, Chúa nói với Áp-ra-ham: “Tiếng than trách về Sô-đôm và Gô-mô-rơ thật quá lớn, tội lỗi các thành đó thật nghiêm trọng! Ta phải ngự xuống để xem chúng có làm như tiếng đã kêu thấu đến Ta không. Có hay không thì Ta sẽ biết” (câu 20–21).
  Áp-ra-ham đã quan tâm nhiều đến Sô-đôm bởi vì cháu của ông, Lót, đang sống ở đó. Áp-ra-ham biết rằng nếu sự phán xét đến trên Sô-đôm, Lót và gia đình ông sẽ chịu khổ chung với dân còn lại của thành phố.
  Cảnh tượng này tiếp tục: “Vậy, các vị (thiên thần) từ đó đi về phía Sô-đôm, nhưng Áp-ra-ham vẫn đứng chầu trước mặt Đức Giê-hô-va [để giữ Ngài lại].  Áp-ra-ham đến gần và thưa: “Chúa sẽ tiêu diệt cả người công chính lẫn người gian ác sao?  Giả sử trong thành có năm mươi người công chính thì Ngài cũng sẽ tiêu diệt hết sao? Không bao giờ Chúa làm như vậy! Chẳng lẽ Chúa tiêu diệt người công chính chung với kẻ gian ác, xem người công chính cũng như kẻ gian ác sao? Không bao giờ Chúa làm như vậy! Đấng phán xét toàn thế gian lại không thực thi công lý sao?”
 Áp-ra-ham phải có can đảm mới dám nói với Chúa theo cách đó. Tuy nhiên, Áp-ra-ham biết rằng điều đó hoàn toàn không hợp với bản tính  của Đức Chúa Trời, và ngược lại với công lý của Ngài, khi cho sự phán xét giáng xuống trên người công bình.
  Thi-thiên 91: 7–8 vạch ra lời tiên tri này: “Sẽ có nghìn người sa ngã bên ngươi, Và vạn người sa ngã bên phải ngươi. Nhưng tai họa sẽ chẳng đến gần ngươi. Ngươi chỉ lấy mắt mình nhìn xem Và sẽ thấy sự báo trả cho kẻ ác”. Bất cứ điều gì đến như là sự phán xét trên kẻ ác thì sẽ không bao giờ chạm vào người công bình. Người công chính có thể ở giữa sự phán xét như vậy, nhưng nó sẽ không chạm đến anh ta.
  Tuy nhiên, hãy lưu ý rằng có sự khác biệt giữa sự phán xét và sự bắt bớ vì sự công bình. Kinh Thánh nói rằng người công bình sẽ kinh nghiệm sự bắt bớ. Điểm khác biệt là sự phán xét từ Đức Chúa Trời dành cho sự gian ác, đến trên kẻ ác; trong khi sự bức hại cho sự công bình đến trên người công bình, đều do kẻ ác gây ra.
   Vì vậy, với lòng dũng cảm thánh thiện và niềm xác tín mãnh liệt rằng Đức Chúa Trời phải tuyệt đối công bình, Áp-ra-ham đặt ra nan đề để thách thức Chúa theo nguyên tắc này: “Lạy Chúa, nếu có năm mươi người công bình trong thành phố đó, Ngài sẽ tha cho thành phố đó không?” Chúa trả lời Áp-ra-ham rằng Ngài sẽ tha cho thành phố đó nếu có thể tìm được năm mươi người công chính. Thế còn bốn mươi lăm? Ngài sẽ tha cho nó vì bốn mươi lăm người công bình không?” -Và Chúa nói rằng Ngài sẽ tha cho nếu bốn mươi lăm người công bình có thể được tìm thấy trong đó. Và như vậy cuộc trò chuyện tiếp tục. . . bốn mươi. . ba mươi . . . hai mươi, cho đến khi cuối cùng Áp-ra-ham đến sự thách thức cuối cùng của mình: “Giả như chỉ có mười người công chính trong toàn thành phố đó. Ngài sẽ tha cho thành vì cớ mười người không? ”-Và Chúa nói rằng Ngài sẽ tha cho thành vì cớ mười người công chính.
  Đó là một sự mặc khải kinh khủng! Nếu sự tính toán của tôi là chính xác, Sô-đôm là một thành phố lớn trong thời đó, với dân số không dưới 10.000 người. Vì lợi ích của mười trong số 10.000 người, Đức Chúa Trời đã sẵn sàng tha cho toàn bộ thành phố. Đó là tỉ lệ một trên một ngàn!
  Một trên một ngàn! Kinh thánh dường như sử dụng cụm từ này để chỉ ra một người có sự công bình nổi bật. Đức Chúa Trời nói, “Nếu Ta có thể tìm thấy trong Sô-đôm một người công chính trong hàng nghìn người, Ta sẽ tha cho toàn thành phố”. Nếu chúng ta áp dụng tỷ lệ này cho thành phố của mình hôm nay, chúng ta có đủ tư cách để trở thành một trong những người công bình không?
- Sự Cầu thay Của Môi-se
  Ví dụ thứ hai của chúng ta về một người cầu thay là Môi-se. Trong Xuất hành 32, chúng ta thấy ông lên núi Si-nai để tiếp nhận giao ước từ Đức Chúa Trời. Sau khi ông đã ra đi nhiều ngày, dân chúng mất kiên nhẫn và thúc giục A-rôn tạo các vị thần cho họ thờ phượng. Vì vậy, A-rôn lấy bông tai vàng và làm ra một con bê bằng vàng đúc, xung quanh đó Y-sơ-ra-ên bắt đầu nhảy múa và thờ phượng.
  Khi điều này xảy ra trong trại, Đức Chúa Trời phán với Môi-se trên núi và nói: “Hãy xuống đi, vì dân mà con đưa ra khỏi đất Ai Cập đã hư hỏng rồi. Chúng đã vội rời bỏ đường lối mà Ta truyền dạy, đúc cho mình một tượng bò con, thờ lạy tượng đó” (câu 7-8).
  Tại thời điểm căng thẳng này với số phận của Y-sơ-ra-ên như đang treo trên cái cân, có một lưu ý của sự hài hước trong cuộc trò chuyện tiếp theo giữa Đức Chúa Trời và Môi-se. Khi nói về Y-sơ-ra-ên với Môi-se, Đức Chúa Trời gọi họ là "dân của ngươi". Nhưng Môi-se, không muốn chấp nhận trách nhiệm này, đưa nó trở lại cho Đức Chúa Trời và thưa, "dân của Ngài". Cả Đức Chúa Trời cũng như Môi-se đều không muốn chịu trách nhiệm về Y-sơ-ra-ên tại thời điểm đó! Trong khi đó, Y-sơ-ra-ên tiếp tục nhảy múa quanh bò con vàng, hoàn toàn không biết rằng số phận của họ đã được giải quyết bởi cuộc đối thoại giữa Đức Chúa Trời và Môi-se.
  Đức Chúa Trời tuyên bố với Môi-se rằng: “Vậy bây giờ hãy để mặc Ta, để cơn thịnh nộ Ta nổi lên và tiêu diệt chúng. Nhưng Ta sẽ làm cho con thành một dân lớn” (câu 10). Lưu ý rằng Đức Chúa Trời sẽ không làm gì trừ phi Môi-se cho phép Ngài. Nhưng Môi-se sẽ không thoát ra khỏi đường lối của Đức Chúa Trời. Là một người cầu thay can thiệp, ông vẫn đứng giữa Đức Chúa Trời và dân chúng.
  Cuối cùng, Đức Chúa Trời phán rằng Ngài sẽ dùng Môi-se để chuộc lại lời hứa của Ngài hứa với Áp-ra-ham, Y-sác và Gia-cốp bằng cách bắt đầu mọi sự với Môi-se và làm ông thành một quốc gia vĩ đại. Mặc dù dân nầy chẳng là gì ngoài một gánh nặng đối với ông kể từ khi rời Ai Cập, Môi-se vẫn đã cầu thay cho họ (câu 11-12).
  Mối quan tâm của Môi-se là vì thanh danh của Đức Chúa Trời. Ông nói, “Chúa ơi, nếu Ngài mang những người này ra khỏi Ai –cập và họ bị hư mất ở vùng núi, người Ai Cập sẽ nói rằng Ngài có ý định xấu xa chống lại họ nên Ngài đưa họ ra ngoài”.
  Vào phần cuối Xuất Ai-cập Ký 32, chúng ta tìm thấy sự cầu thay của Môi-se kết thúc. Sau khi ông ta trở về trại và sắp xếp mọi thứ theo thứ tự, ông nói với dân chúng (câu 30–32):
  Ngày hôm sau, Môi-se nói với dân chúng: “Anh em đã phạm một trọng tội. Nhưng bây giờ ta sẽ lên gặp Đức Giê-hô-va, có lẽ ta sẽ chuộc được tội cho anh em.”  Vậy Môi-se trở lên gặp Đức Giê-hô-va và thưa với Ngài rằng: “Ôi! Dân nầy đã phạm một trọng tội, họ đã làm cho mình tượng thần bằng vàng. Nhưng bây giờ xin Chúa tha tội cho họ! Nếu không, xin Ngài xóa tên con khỏi sách Ngài đã viết”.
   Đó là sự cầu thay can thiệp! “Chúa ơi, họ xứng đáng cho Ngài hình phạt; xin tha lỗi cho họ đi. Nhưng nếu không, Chúa ơi, hãy để sự phán xét của họ giáng trên con”. Người cầu thay can thiệp là người đứng giữa Đức Chúa Trời và đối tượng đáng bị sự thạnh nộ của Ngài. Thi thiên 106 cung cấp một lời bình luận thần thượng về sự việc này (câu 19–23):
  Tổ phụ chúng con đã đúc một con bò tơ tại Hô-rếp, Và thờ lạy tượng ấy. Họ đổi Đấng vinh quang của mình Để lấy hình tượng con bò ăn cỏ.  Họ quên Đức Chúa Trời là Đấng đã giải cứu họ, Và làm những việc vĩ đại cho họ ở Ai Cập; Ngài thực hiện những việc kỳ diệu trong xứ Cham, Và các điều kinh khiếp bên bờ Biển Đỏ. Vì vậy, Chúa phán rằng Ngài sẽ hủy diệt họ. Nhưng Môi-se là người được Chúa chọn, Đứng nơi sứt mẻ trước mặt Ngài, Để xin Ngài đừng giận mà hủy diệt họ”.
  Môi-se đứng trong nơi sứt mẻ do tội lỗi của dân Đức Chúa Trời và thưa, “Lạy Chúa, tôi đang ngăn chặn khoảng cách sứt mẻ. Cú đòn hình phạt của Ngài không thể giáng trên họ, trừ khi nó rơi trên con trước tiên”.
  Dân số ký 16 ghi lại một gương mẫu khác về sự cầu thay. Ở đây Môi-se và A-rôn cùng nhau là những người cầu thay. Đức Chúa Trời đã có tối thượng quyền xử lý sự nổi loạn của Cô-rê, Đa-than và A-bi-ram bằng cách làm cho trái đất mở miệng ra và nuốt sống họ. Nhưng: “ngày mai, cả hội chúng Y-sơ-ra-ên cằn nhằn chống lại Môi-se và A-rôn. Họ nói: “Các người đã giết con dân của Đức Giê-hô-va!” Khi đang hiệp nhau chống lại Môi-se và A-rôn, hội chúng nhìn về phía Lều Hội Kiến, thấy đám mây bao phủ Lều và vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra.  Môi-se và A-rôn đến đứng trước Lều Hội Kiến,  và Đức Giê-hô-va phán với Môi-se: “Hãy tránh xa hội chúng nầy, Ta sẽ tiêu diệt họ trong giây lát.” Nhưng hai người sấp mặt xuống đất” (câu 41–45).
  Đó là vị trí của người cầu thay– phủ phục trước mặt Đức Chúa Trời, biết rằng sự phán xét sắp đổ xuống.
  Về mặt cá nhân, tôi ngạc nhiên trước ân huệ của Chúa có trong Môi-se và A-rôn. Mọi người đã chống lại họ mà họ không có lý luận. Tuy nhiên, đối với những người chỉ trích họ, họ sẵn sàng cầu thay-- ngay cả khi có nguy cơ mất mạng sống của chính mình.
--Môi-se nói  với A-rôn và hướng dẫn ông ta:
  "Rồi Môi-se bảo A-rôn rằng: “Anh hãy lấy lư hương bỏ lửa từ bàn thờ vào và bỏ hương liệu lên trên, rồi mau mau đi đến hội chúng mà làm lễ chuộc tội cho họ, vì cơn thịnh nộ của Đức Giê-hô-va đã nổi lên và tai họa đã bắt đầu.” A-rôn làm như Môi-se đã bảo và chạy đến giữa hội chúng. Kìa,tai họa đã phát khởi giữa dân chúng. A-rôn dâng hương và làm lễ chuộc tội cho dân chúng.  Ông đứng giữa kẻ chết và người sống thì tai họa liền dừng lại “(câu 46–48)
  Ngôn ngữ trong đoạn văn này nhấn mạnh tính khẩn cấp của sự cầu thay can thiệp. Môi-se nói với A-rôn, "Đi nhanh lên. .. A-rôn đã không còn đi nữa; ông ta “chạy”-  Mỗi khoảnh khắc của sự chậm trễ sẽ gây thiệt hại nhiều mạng sống con người.
  Từ ngữ “tai họa” cho thấy một cái gì đó rất dễ lây nhiễm và để làm sự chuộc tội A-rôn vô tư phải quyết tâm phơi bày chính mình với sự lây nhiểm đó. Ông ta đã liều mạng sống của mình. Khi ông đứng đong đưa cái lư hương, khói bốc lên thành một vạch trắng và phân chia kẻ sống với người chết. Khi làn khói trắng bay lên từ lư hương, tai họa đã dừng lại. Đó là sự cầu thay can thiệp: - với nguy cơ liều mạng sống của chính bạn -- giữa người chết và những người sắp chết, rồi dâng lên lời cầu nguyện nhiệt thành và cầu khẩn, giống như làn khói trắng đó từ lư hương, cho đến khi tai họa ngừng lại.
 - Thiếu Những Người Cầu Thay-
  Ê-xê-chi-ên 22: 23–31 ghi lại cho chúng ta một cảnh tượng khác. Cảnh này tương tự như cảnh vừa qua ở chỗ nó miêu tả tội lỗi của dân Đức Chúa Trời, nhưng khác biệt ở chỗ không có người cầu thay nào được tìm thấy, để có thể đứng giữa tội lỗi của con người và sự phán xét của Đức Chúa Trời.
  Lại có lời Đức Giê-hô-va phán với tôi: “Hỡi con người, hãy nói với nó (Y-sơ-ra-ên) rằng: ‘Ngươi là đất chẳng được tẩy sạch, trong ngày thịnh nộ chẳng được mưa dào. Những kẻ tiên tri của nó lập mưu giữa nó …Các thầy tế lễ nó phạm luật pháp Ta … Các nhà lãnh đạo ở giữa nó giống như muông sói xé mồi; …. Dân trong xứ làm điều bạo ngược, phạm tội trộm cướp, khuấy rối kẻ nghèo nàn, thiếu thốn….  Ta đã tìm một người trong chúng để xây lại tường thành, vì đất mà đứng chỗ sứt mẻ trước mặt Ta hầu cho Ta không hủy diệt nó, nhưng Ta chẳng tìm được một ai. Do đó, Ta đã đổ cơn thịnh nộ trên chúng…”
  Tất cả các thành phần của dân chúng đã thất bại hoàn toàn -- tiên tri, thầy tế lễ, quan trưởng, dân chúng. Mỗi phần trong số này là một yếu tố nào đó trong xã hội. Các “tiên tri” là những người chịu trách nhiệm mang thông điệp trực tiếp từ Đức Chúa Trời. “Các thầy tế lễ” là những người lãnh đạo cơ chế tôn giáo. Các “nhà lãnh đạo” là những nhà cầm quyền thế tục. "Dân chúng" là phần còn lại của dân tộc, những người bình thường. Thứ tự trong bốn phần tử này được liệt kê ra đều có ý nghĩa. Quá trình thối nát bắt đầu với sự lãnh đạo thuộc linh; sau đó chính quyền thế tục cũng bị hư hỏng; cuối cùng cả nước bị ảnh hưởng. (Đây là trật tự ở Hoa kì hiện đại và nhiều quốc gia khác.)
  Mặc dù tất cả thành phần của xã hội do đó bị hư hỏng, tình hình vẫn chưa tuyệt vọng. Đức Chúa Trời đã tìm kiếm một người, một người cầu thay can thiệp, để đứng trong khoảng trống và dựng lên hàng rào để Ngài có thể tha cho cả nước. Nhưng bởi vì Ngài không thể tìm được một ai, nên Ngài đổ ra trên chúng sự phẫn nộ của Ngài và “tiêu hủy chúng bằng ngọn lửa cơn thịnh nộ của Ngài”. Một người -- một người cầu thay can thiệp - có thể cứu cả một dân tộc khỏi sự phán xét!
- Cần Những Người Cầu Thay-
   Kinh Thánh cho thấy sự phán xét là theo đúng ánh sáng đã được ban cho. Ánh sáng càng lớn, sự phán xét càng nghiêm trọng hơn. Khi chúng ta tìm hiểu phương tiện truyền thông mà qua đó lẽ thật đang lan truyền ngày nay -- truyền hình, đài phát thanh, sách vở, phương tiện kỷ thuật số. Tôi nói rằng không có thế hệ nào trên mặt đất đã từng có được ánh sáng thuộc linh lớn hơn thế hệ này.
  Đức Chúa Trời đã nói chuyện với tôi một cách rõ ràng vào năm 1953 khi tôi vẫn còn là một mục sư ở Anh quốc. Ngài nói: “sẽ có một sự phục hưng lớn lao ở Hoa Kỳ và Anh Quốc”. Vì điều này, Đức Chúa Trời đã đề ra một sự đòi hỏi cơ bản: - sự vâng phục. Tôi tin rằng sự phục hưng vĩ đại đang đến -- nếu Đức Chúa Trời có thể tìm thấy những người cầu thay can thiệp để ngăn cản sự phán xét của Ngài và kêu xin sự thương xót của Ngài.
  Cuối cùng, hãy để tôi cung cấp cho bạn bốn tư cách mà tôi thấy trong mọi người cầu thay thực sự. Thứ nhất, một người cầu thay, giống như Áp-ra-ham, phải có một niềm xác tín tuyệt đối về sự công bình của Đức Chúa Trời: rằng Đức Chúa Trời sẽ không bao giờ đưa ra sự phán xét trên người công chính, chỉ trên kẻ ác mà thôi. Đồng thời, người ấy phải có một tầm nhìn rõ ràng về công lý tuyệt đối và không thể tránh khỏi—là sự phán xét của Đức Chúa Trời trên kẻ ác.
  Thứ hai, người phải có một cái nhìn sâu sắc về vinh quang của Đức Chúa Trời, giống như Môi-se, người đã hai lần từ chối lời đề nghị của Đức Chúa Trời, khi Ngài muốn làm ông thành tổ tiên của một dân tộc vĩ đại nhất trên trái đất. Sự vinh hiển của Đức Chúa Trời quan trọng với ông hơn là danh tiếng của cá nhân ông. Thứ ba, một người cầu thay phải có một sự quen biết thân mật với Đức Chúa Trời. Người phải được chuẩn bị dám liều mạng sống của chính mình, như A-rôn, người đã bỏ lơ sự lây nhiểm của tai họa hầu tiếp lấy chỗ đứng của ông ta giữa người chết và người sống.
Và cuối cùng, làm một người cầu thay can thiệp sẽ nhận được sự dũng cảm thánh thiện. Bạn phải liều mạng sống của mình, giống như A-rôn và nói, "Tôi sẽ chạy thoát nguy cơ mắc tai họa, nhưng tôi đang đi để đứng ở đấy!"
  Không có sự kêu gọi nào cao hơn việc làm một người cầu thay. Khi bạn trở thành một người cầu thay, bạn đã lên ngôi. Con người sẽ không thấy bạn bởi vì bạn sẽ ra khỏi tầm mắt của người ta, vượt quá tấm màn thứ hai; nhưng trong Nước Đức Chúa Trời, cuộc sống của bạn sẽ được tính theo thời gian và cõi vĩnh cửu.