Thứ Hai, 16 tháng 10, 2017

2 CÔ-RIN-TÔ BÀI 1


GIỚI THIỆU (1)
Đọc Kinh Thánh: 2 Cô-rin-tô 1:1-11
Chỉ có Sách 2 Cô-rin-tô là có lời giới thiệu rất dài. Thư Tín này có mười ba chương mà một chương rưỡi đầu là lời giới thiệu. Không có Sách nào khác trong Kinh Thánh có lời giới thiệu dài như thế.
Lời giới thiệu của Sách 2 Cô-rin-tô dài vì bối cảnh của Sách này rất phức tạp. Trong 1 Cô-rin-tô, Phao-lô xử lí tín đồ Cô-rin-tô về nhiều điều. Ông tranh luận với họ và quở trách họ. Vì bối cảnh này nên 2 Cô-rin-tô cần có một lời giới thiệu dài.
Lời giới thiệu này thật ra là một lời an ủi. Phao-lô nhận thức rằng, vì ông đã kỷ luật người Cô-rin-tô trong Thư trước nên ông cần rịt lành vết thương của họ trong Thư này. Một chương rưỡi đầu, Sách 2 Cô-rin-tô có liên hệ đến việc rịt lành vết thương này. Điều Phao-lô đang làm ở đây giống như cha mẹ an ủi con cái sau khi chúng bị kỷ luật. Giả sử một đứa con cư xử không đúng và bị cha mẹ kỷ luật nghiêm khắc. Sau khi người con ăn năn, cha mẹ sẽ dành thời gian để an ủi con. Trong một chương rưỡi đầu của Sách 2 Cô-rin-tô, Phao-lô đã đổ dầu vào những vết thương của người Cô-rin-tô, những vết thương do sự kỷ luật của ông gây ra.
Một lí do khác cho sựgiới thiệu dài này là Phao-lô là người rất tình cảm. Ông là người mạnh mẽ trong tình cảm cách đúng đắn. Dù ông bị Linh giới hạn khi đang quở trách tín đồ Cô-rin-tô nhưng ông vẫn mạnh mẽ. Chẳng hạn như, trong 1 Cô-rin-tô 4:21 ông hỏi: “Anh em muốn gì? Muốn tôi cầm roi mà đến cùng anh em, hay là muốn tôi lấy tình thương yêu và lòng (linh) nhu mì mà đến ư?” Những lời này cho thấy rằng ông rất mạnh mẽ trong tình cảm. Khi Phao-lô đổ dầu vào những vết thương và rịt lành chúng, ông đã vận dụng tình cảm và giải phóng tình cảm theo cách rất tích cực. Vì thế, ông cần thời gian nhiều hơn để biểu lộ tình cảm của mình.
Câu 3 khải thị tình cảm của Phao-lô: “Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa chúng ta là Jesus Christ, là Cha hay thương xót, là Đức Chúa Trời ban mọi sự an ủi”. Lời khuyên của Phao-lô cho nỗi buồn phiền, sự chịu khổ, và lời an ủi trong câu 4 và 5 cũng cho thấy rằng ông rất tình cảm. Theo tôi, dường như Phao-lô đã cô đọng ba câu này thành một câu và nói: “Hỡi anh em Cô-rin-tô yêu dấu, vì tôi được Đức Chúa Trời khích lệ nên bây giờ tôi khích lệ anh em”. Nhưng vì Phao-lô quá tình cảm nên ông đã viết theo cách dường như lặp đi lặp lại. Trong câu 6, 7 và 8 ông nói tiếp về sự chịu khổ, nỗi buồn phiền, và sự an ủi. Vì Phao-lô tình cảm nên ông cần có cơ hội để giải phóng tình cảm của ông cách tích cực.
Một lí do khác để lời giới thiệu này dài là người Cô-rin-tô rất phức tạp. Một mặt họ thích Phao-lô; mặt khác, họ có điều gì đó không vui với ông. Ông đã dùng lời giới thiệu dài này để giải quyết sự phức tạp của họ và làm cho họ bình tịnh hầu có thể nhận được lời của ông.
I. NGƯỜI VIẾT VÀ NGƯỜI NHẬN
Trong lời giới thiệu dài này, chúng ta có thể thấy con người của Phao-lô. Tôi rất thích Phao-lô. Có thể ông tình cảm, đồng cảm, và mềm mại. Cũng có thể ông mạnh mẽ và cứng rắn. Ông chân thật, đơn giản, và thành thật. Có khi ông lịch thiệp nhưng ông không bao giờ chính trị. Tôi đã học ở Phao-lô rất nhiều. Cả đời tôi, tôi đã học nhiều nhất từ hai người: thứ nhất là Phao-lô; thứ hai là Watchman Nee.
Câu 1 chép: “Phao-lô, do ý chỉ Đức Chúa Trời, làm sứ đồ của Christ Jesus, cùng anh em là Ti-mô-thê, đạt cho Hội thánh của Đức Chúa Trời tại Cô-rin-tô, và cho hết thảy thánh đồ ở A-chai”. A-chai nằm ở phía nam Ma-xê-đoan. Một tỉnh của Đế quốc La-mã, nó đã hình thành nên phần lớn Hy Lạp ngày nay. Thành phố Cô-rin-tô ở trong tỉnh này. Tác giả 2 Cô-rin-tô là Phao-lô và Ti-mô-thê; người nhận là Hội thánh của Đức Chúa Trời tại Cô-rin-tô cùng với tất cả thánh đồ trong cả xứ A-chai.
II. CHÀO THĂM
Lời chào thăm của Phao-lô được tìm thấy trong câu 2: “Nguyện anh em được ân điển, bình an từ Đức Chúa Trời, Cha chúng ta, và từ Chúa Jesus Christ”. Lời chào thăm này thường được Phao-lô dùng trong các Thư Tín của ông.
III. SỰ AN ỦI CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
A. Được An Ủi Để An Ủi
Trong câu 3 và 4 Phao-lô nói: “Chúc tụng Đức Chúa Trời, Cha của Chúa chúng ta là Jesus Christ, là Cha hay thương xót, là Đức Chúa Trời ban mọi sự an ủi; Ngài an ủi chúng tôi trong mọi sự hoạn nạn, hầu cho nhơn sự an ủi mà Ngài đã an ủi chúng tôi, thì chúng tôi cũng có thể an ủi kẻ khác trong sự hoạn nạn nào họ gặp”. Từ Hy Lạp dịch chữ thương xót cũng có nghĩa là lòng trắc ẩn, đáng thương, đồng cảm. An ủi thì hơi khác với vỗ về, và có nghĩa là được làm cho phấn chấn. Danh xưng Cha hay thương xót và Đức Chúa Trời ban mọi sự an ủi như thế được gán cho Đức Chúa Trời ở đây vì Thư này là một Thư an ủi, khích lệ được vị sứ đồ viết sau khi ông được an ủi và được khích lệ bởi việc tín đồ Cô-rin-tô ăn năn.
Trong câu 4, Phao-lô nói rằng chúng tôi an ủi người khác trong hoạn nạn qua sự an ủi mà chính chúng tôi được Đức Chúa Trời an ủi. Trước hết, chúng ta phải kinh nghiệm sự an ủi của Đức Chúa Trời. Khi đó, chúng ta mới có thể an ủi người khác với sự an ủi mà chúng ta đã kinh nghiệm về Đức Chúa Trời. Vì thế, chúng ta được an ủi để có thể an ủi người khác. Điều này đòi hỏi kinh nghiệm. Khi được kinh nghiệm, chúng ta nhất thiết phải an ủi người khác về mặt thuộc linh.
Nếu anh em chưa bao giờ chịu khổ và chưa bao giờ được Đức Chúa Trời an ủi thì anh em sẽ không thể an ủi người khác. Lời an ủi của anh em sẽ rỗng tuếch. Anh em giống như người viết một ngân phiếu với một số tiền lớn mà không có ngân quỹ trong ngân hàng để chứng minh cho tờ ngân phiếu đó. Anh em không có thực tại, không có kinh nghiệm, và không có vốn thuộc linh. Trước hết chính chúng ta phải chịu khổ vì những mối quan tâm của Chúa rồi sau đó được Đức Chúa Trời an ủi và khích lệ. Khi đó, kinh nghiệm này sẽ trở thành vốn thuộc linh để an ủi người khác. Như vậy, chúng ta được an ủi và rồi chúng ta an ủi người khác.
Thư Tín thứ nhất gởi cho người Cô-rin-tô là sự tranh luận của vị sứ đồ, một sự tranh luận đã đánh bại và khuất phục người Cô-rin-tô, là người đã bị xao lãng và bối rối. Bây giờ, Thư Tín thứ hai đem họ trở lại kinh nghiệm Christ, Đấng là chủ đề của sự tranh luận trong Thư thứ nhất. Vì thế, Thư thứ hai kinh nghiệm hơn, chủ quan hơn, và sâu sắc hơn Thư thứ nhất. Trong Thư thứ nhất, Christ, Linh với linh chúng ta, Hội thánh, và ân tứ được đề cập như là những chủ đề chính. Trong Thư thứ hai, Christ, Linh với linh chúng ta, và Hội thánh được phát triển thêm, nhưng ân tứ thì không được đề cập. Trong Sách này ân tứ được thay thế bằng chức vụ, là điều được cấu tạo, được sản sinh và được hình thành bởi những kinh nghiệm về những sự phong phú của Christ qua sự chịu khổ, qua những áp lực chi phối, và công tác giết chết của thập tự giá. Thư thứ hai cho chúng ta một gương mẫu, một kiểu mẫu làm thế nào sự giết chết của thập tự giá có hiệu quả, làm thế nào Christ được đem vào trong bản thể chúng ta, và làm thế nào chúng ta trở thành sự biểu lộ của Đấng Christ. Những điều này cấu tạo các chấp sự của Christ và sản sinh chức vụ giao ước mới của Đức Chúa Trời. Thư thứ nhất xử lí các ân tứ cách tiêu cực; Thư thứ hai nói tích cực về chức vụ. Hội thánh cần chức vụ nhiều hơn ân tứ. Chức vụ là để cung ứng Christ mà chúng ta kinh nghiệm; ân tứ chỉ để dạy giáo lí về Đấng Christ. Bằng chứng mà các sứ đồ là chấp sự của Christ, bằng chứng đó không cốt tại ân tứ, nhưng cốt tại chức vụ được sản sinh và được hình thành bởi kinh nghiệm những nỗi khổ của Christ, các hoạn nạn của Ngài.
B. TRONG HOẠN NẠN, BỊ ĐÈ NÉN ĐẾN HẾT HI VỌNG SỐNG
Trong câu 5 Phao-lô nói: “Vì theo như những sự khổ sở của Đấng Christ chan chứa trong chúng tôi thể nào, thì bởi Đấng Christ sự an ủi của chúng tôi cũng chứa chan thể ấy”. Những sự khổ sở ở đây không phải là những sự khổ sở vì Christ, mà là những sự khổ sở của Christ khi được các môn đồ Ngài chia sẻ (Mat. 20:22; Phil. 3:10; Côl. 1:24; 1 Phi. 4:13). “Đấng Christ” là tước hiệu về tình trạng của Christ chứ không phải là một danh (Darby). Ở đây nói đến Đấng Christ chịu khổ, Đấng chịu đựng những hoạn nạn vì Thân Thể Ngài theo ý chỉ của Đức Chúa Trời. Các sứ đồ đồng dự phần những sự khổ sở của một Đấng Christ như thế, và qua Christ như thế, họ nhận được sự an ủi. Theo câu 6 và 7, hoạn nạn và an ủi của họ tất cả đều để an ủi tín đồ.
Câu 8 chép: “Anh em ơi, chúng tôi không muốn anh em chẳng biết về sự hoạn nạn đã xảy đến cho chúng tôi trong A- si, thể nào chúng tôi đã bị đè nén quá chừng quá sức, đến nỗi cũng hết mong sống được”. Từ liệu bị đè nén ở đây cùng một từ Hy Lạp như trong 5:4, có nghĩa là đè nặng, đè ép. Phao-lô ở A-si khi ông viết 1 Cô-rin-tô. Lúc đó ông và các đồng công của ông đang gặp hoạn nạn. Sự buộc tội và sự tấn công họ là rất nặng. Họ bị đè nén, đè ép vượt quá sức mình. Họ bị đè nén đến mức mà năng lực thiên nhiên của họ không thể chịu nổi. Thậm chí họ không còn hi vọng sống. Theo đánh giá của họ về tình huống này thì họ không có hi vọng sống. Họ chắc rằng họ sẽ chết, và họ sẽ bị những người buộc tội giết chết.
Trong câu 9, Phao-lô nói tiếp: “Thật chúng tôi đã tự đoán định rằng chắc phải chết, hầu cho chúng tôi không cậy mình, nhưng cậy Đức Chúa Trời là Đấng khiến kẻ chết sống lại”. Theo nghĩa đen, từ đoán định có nghĩa là trả lời hoặc đáp lại. Khi các sứ đồ ở dưới áp lực của hoạn nạn, thậm chí không còn hi vọng sống, có lẽ họ đã tự hỏi rằng kết quả việc họ chịu khổ là gì. Câu trả lời hoặc lời đáp là chết.
Trong khi họ đang bị bắt bớ, các sứ đồ tự hỏi hậu quả sẽ là gì. Theo đánh giá của họ, họ đang hấp hối. Đây là sự tự thấu hiểu dẫn đến một quyết định sống còn cụ thể. Điều đó làm cho họ không tự tin vào chính mình. Đến chừng mà họ quan tâm thì đã không còn thoát được. Sự tin cậy của họ ở trong Đức Chúa Trời, Đấng làm cho kẻ chết sống lại.
Kinh nghiệm sự chết đẩy chúng ta vào trong kinh nghiệm sự phục sinh. Sự phục sinh là chính Đức Chúa Trời, Đấng phục sinh kẻ chết. Công tác thập tự giá kết liễu bản ngã để chúng ta có thể kinh nghiệm Đức Chúa Trời trong sự phục sinh. Kinh nghiệm thập tự giá luôn luôn dẫn vào trong sự vui hưởng Đức Chúa Trời của sự phục sinh. Kinh nghiệm như thế sản sinh và hình thành chức vụ. Điều này được mô tả thêm trong 4:7-12.
Càng về cuối 1 Cô-rin-tô, Phao-lô nói về sự phục sinh. Bây giờ, ở đầu 2 Cô-rin-tô, Phao-lô đem tín đồ trở lại vấn đề phục sinh này. Như chúng ta sẽ thấy, điều này có liên hệ đến chức vụ. Chức vụ không phải là vấn đề việc làm của chúng ta mà đó là vấn đề nếp sống của chúng ta. Cả chức vụ lẫn nếp sống được khải thị trong Thư Tín này đều thuộc về sự sống phục sinh.
Trong 1 Cô-rin-tô, Phao-lô tuyên bố sự kiện phục sinh. Sự phục sinh nên là nếp sống hằng ngày của chúng ta; đối với chúng ta, sự phục sinh nên là quyền năng để đắc thắng tội và sự chết và để sống trong ngày đầu tuần. Bây giờ trong 2 Cô-rin-tô, Phao-lô cho chúng ta một chứng cớ thể nào các sứ đồ đã sống trong ngày thứ nhất của tuần lễ. Họ không cách nào sống trong ngày thứ bảy, không cách nào sống trong sáng tạo cũ. Điều này có nghĩa là họ không thể sống trong chính mình. Không tự tin vào chính mình có nghĩa là không còn cách nào để chúng ta sống trong sáng tạo cũ nữa. Vì các sứ đồ sống trong ngày thứ nhất của tuần lễ nên sự tin cậy của họ chỉ ở trong Đức Chúa Trời của sự phục sinh, Đức Chúa Trời Đấng làm cho kẻ chết sống lại. Họ xem mình như đã chết rồi. Điều này cho thấy rằng Phao-lô không chỉ viết về sự phục sinh mà ông còn sống sự phục sinh.
Trong câu 10 Phao-lô nói tiếp: “Ngài đã giải cứu chúng tôi khỏi sự chết lớn dường ấy, vẫn đương giải cứu chúng tôi, và chúng tôi còn hi vọng Ngài (cũng) sẽ giải cứu chúng tôi nữa”. Từ “sẽ giải cứu” nói đến tương lai gần, trái lại “cũng sẽ giải cứu chúng tôi nữa” nói đến tương lai theo cách chung chung hơn. Ở đây Phao-lô không nói rằng Đức Chúa Trời sẽ giải cứu họ khỏi hoạn nạn lớn, nhưng khỏi “sự chết lớn dường ấy”. Đức Chúa Trời đã giải cứu họ khỏi một tình huống chết.
Câu 11 chép: “Anh em cũng lấy sự cầu nguyện mà giúp đỡ chúng tôi với, để nhơn vì ân tứ đã do nhiều người mà ban cho chúng tôi đó, lại được nhiều người vì chúng tôi mà cảm tạ nữa”. Từ “giúp đỡ với” tiếng Hy Lạp cũng có nghĩa là làm việc với nhau. Ân tứ trong câu này nói đến ân điển được ban cho (c. 12), ân điển mà các sứ đồ vui hưởng trong kinh nghiệm của sự phục sinh từ sự chết. Theo nghĩa đen, từ liệu nhiều người có nghĩa là nhiều khuôn mặt, ngụ ý rằng những lời cảm tạ được dâng lên bởi những người có những khuôn mặt vui mừng.
Ân tứ trong câu 11 rất khác với ân tứ trong 1 Cô-rin-tô. Ân tứ là ân điển của Đức Chúa Trời, và ân điển này là sự sống phục sinh, Đấng Christ phục sinh. Christ phục sinh được ban cho các sứ đồ như là ân điển. Điều này làm cho các sứ đồ có thể vui hưởng, kinh nghiệm sự phục sinh từ sự chết.
Phao-lô cho chúng ta một lời chứng về việc sống trong sự sống phục sinh. Các sứ đồ đang sống trong sự phục sinh. Đức Chúa Trời đã đặt họ vào trong một tình huống đặc biệt, một tình huống thật sự chết. Không có cách nào để một người thoát ra khỏi tình huống chết như thế hoặc có năng lực để đắc thắng tình huống đó cả. Chỉ có Đức Chúa Trời của sự phục sinh, Đức Chúa Trời mà chính Ngài là sự phục sinh mới có thể giải cứu họ. Ngài bước vào để giải cứu các sứ đồ ra khỏi tình huống chết đó. Sự giải cứu đó là kinh nghiệm sự phục sinh. Đức Chúa Trời đã phục sinh họ khỏi sự chết, và kinh nghiệm của họ là kinh nghiệm về Đức Chúa Trời như là sự phục sinh. Hơn nữa, đó là kinh nghiệm về Đấng Christ phục sinh như là ân điển, ân tứ được Đức Chúa Trời ban cho họ.
Trong những câu này, Phao-lô bảo người Cô-rin-tô thể nào các sứ đồ được an ủi và vì thế có đủ điều kiện để an ủi người khác. Sau đó ông nói tiếp kinh nghiệm của ông về Đấng Christ phục sinh và về Đức Chúa Trời của sự phục sinh. Vì Phao-lô và các đồng công kinh nghiệm một ân điển như thế nên họ có khả năng thuộc linh cần thiết để an ủi người khác. Loại kinh nghiệm này cấu tạo họ thành những chấp sự của Giao Ước Mới, những chấp sự của ân điển. Do đó, điều mà chúng ta có trong 2 Cô-rin-tô không phải là ân tứ mà là chức vụ. Hơn nữa, chức vụ thực ra là vấn đề được cấu tạo bởi ân điển qua những kinh nghiệm chịu khổ.

-