PHAO-LÔ BÊNH VỰC UY QUYỀN SỨ ĐỒ CỦA ÔNG (2)
Đọc Kinh Thánh: 2Cô. 10:7-18
Trong 10:7-18, Phao-lô nói về thước đo theo luật lệ của Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy xem xét phần lời này từng câu một.
NHỮNG PHƯƠNG DIỆN VỀ UY QUYỀN SỨ ĐỒ
Câu 7 chép: “Anh em cứ xem theo bề ngoài à! Bằng có ai tự tin mình thuộc
về Christ, thì hãy tự nghĩ lại rằng kẻ đó thuộc về Christ thể nào, thì chúng
tôi cũng thuộc về Ngài thể ấy”. Đây là một lời thẳng thắn, rất khác với những lời
trong chương 6 và 7. Chắc chắn, người Giu-đa là những người tự tin rằng họ thuộc
về Christ. Dù những người Giu-đa này là Cơ Đốc nhân nhưng họ không sẵn sàng làm
một với Phao-lô trong chức vụ của ông. Họ công bố thuộc về Christ. Do đó,
Phao-lô đã tìm cách làm sáng tỏ rằng các sứ đồ chắc chắn cũng thuộc về Christ.
Điều này cho thấy rằng thuộc về Christ là một vấn đề quan trọng. Điều đó là sống
còn đối với đời sống Cơ Đốc và chức vụ.
Trong câu 8 và 9, Phao-lô nói: “Dầu tôi khoe khoang hơi quá về quyền
bính của chúng tôi mà Chúa đã ban cho để gây dựng anh em, chớ chẳng phải để
đánh đổ anh em, thì tôi cũng không đến đỗi hổ thẹn đâu, để tôi khỏi hình như hống
hách anh em bằng thư từ của tôi”. Câu 8 cho thấy trong quá khứ, Phao-lô đã nói
điều gì đó với người Cô-rin-tô về uy quyền sứ đồ của ông. Uy quyền sứ đồ không
phải là cai trị trên tín đồ theo ý nghĩa thiên nhiên, nhưng để xây dựng họ.
Trong câu 9, Phao-lô nói về việc tín đồ sợ hãi do thư từ. Có thể điều
này nói về thư thứ nhất của Phao-lô gởi cho người Cô-rin-tô. Trong thư đó,
Phao-lô đã nói đến uy quyền sứ đồ của ông. Một số người Cô-rin-tô có thể đã xem
lời đó làm họ sợ. Nhưng ở đây, Phao-lô chỉ ra rằng điều đó không nên làm cho họ
sợ.
Trong câu 10, Phao-lô nói tiếp: “Vì có kẻ nói rằng: ‘Các thư của người
nặng nề và mạnh bạo, nhưng đến khi có mặt thì người yếu đuối và lời nói chẳng
ra gì’”. Điều này xác quyết những gì chúng ta đã nói trong bài trước về Phao-lô
khiêm ti khi ở cùng người Cô-rin-tô. Ông nhu mì và không mạnh mẽ chút nào về mặt
thể lực. Hơn nữa, lời nói của ông, sự phát ngôn của ông cũng chẳng ra gì, hoặc
không quan trọng gì. Chữ chẳng ra gì theo tiếng Hy Lạp có nghĩa đen là “chẳng
làm được gì”.
Trong câu 11, Phao-lô nói tiếp: “Kẻ nói như vậy khá nghĩ rằng khi
chúng tôi vắng mặt, lời trong thư thể nào, thì khi có mặt, việc làm cũng thể ấy”.
Dù Phao-lô dường như khi có mặt thì khác với con người của ông ở trong thư,
nhưng thực ra ông vẫn như vậy. Chúng ta nên học tập ông đừng chính trị hay lịch
sự thiên nhiên, nhưng phải linh động. Khi ở với người khác, chúng ta không nên
dạn dĩ hay mạnh mẽ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta thật sự yếu
đuối hay vô tâm. Đúng ra, có thể chúng ta tránh làm người khác vấp phạm cách
không cần thiết. Tuy nhiên, có lúc chúng ta cần phải nói điều gì đó cách dạn dĩ
và mạnh mẽ. Đôi khi, chúng ta cần mạnh mẽ trong việc viết thư, nhưng chúng ta
không phải lúc nào cũng mạnh mẽ. Những lúc khác, lẽ ra chúng ta không nên quá dạn
dĩ trước hiện diện của ai đó, tuy nhiên chúng ta lại dạn dĩ. Điều này cho thấy
rằng chúng ta không khôn ngoan, không linh động, cũng không hiền hoà. Tất cả
chúng ta hãy học tập thành thật, không chính trị. Đồng thời, phải học tập linh
động. Một mặt, hãy cố gắng đừng làm tổn thương cảm xúc của người khác; mặt
khác, vào lúc nào đó chúng ta có thể cần phải nói thẳng trong lẽ thật với một mức
độ dạn dĩ nào đó.
Trong câu 12, Phao-lô nói: “Thật chúng tôi không dám đem mình liệt vào
hoặc sánh với những người kia là kẻ hay tự tiến dẫn mình. Chính họ lấy mình đo
mình, lấy mình sánh mình, thì thật bất thông”. Những người bị vướng vào hoặc bị
gài bẫy trong chính họ thì không có sự hiểu biết đúng đắn.
ĐỪNG KHOE KHOANG QUÁ MỨC
Câu 13 chép: “Song chúng tôi chẳng muốn khoe khoang quá mực, chỉ theo
mực của giới hạn mà Đức Chúa Trời đã chia phần cho chúng tôi làm mực, để cùng đạt
đến nơi anh em”. Vị sứ đồ thật dạn dĩ, nhưng ông dạn dĩ có giới hạn. Điều này
cho thấy rằng ông ở dưới giới hạn của Chúa. Sự khoe khoang của ông theo mực của
giới hạn mà Đức Chúa Trời của sự giới hạn, Đức Chúa Trời của mực thước đã chỉ định
cho ông. Chức vụ của Phao-lô đối với thế giới phi Do Thái, kể cả Cô-rin-tô đều
theo giới hạn của Đức Chúa Trời (Êph. 3:1-2, 8; Ga. 2:8). Vì thế, sự khoe
khoang của ông cũng ở trong giới hạn này, không phải là không có chừng mực như
những giáo sư Do Thái giáo. Chữ giới hạn trong câu 13 nghĩa đen là cây thước
đo, như là như là cây thước của thợ mộc.
Chúng ta đừng bao giờ khoe khoang mà không có chừng mực. Trong việc
làm chứng về những gì chúng ta đã học nơi Chúa, chúng ta nên có giới hạn, có chừng
mực. Từ giới hạn trong câu 13 chỉ ra việc bị Đức Chúa Trời giới hạn. Đức Chúa
Trời đã chia cho chúng ta vừa đủ để công tác và kinh nghiệm. Hơn nữa, Ngài cũng
ban cho chúng ta vừa đủ để vui hưởng. Do đó, khi làm chứng về công tác, kinh
nghiệm hay vui hưởng Chúa, chúng ta phải làm chứng có chừng mực, tức là, trong
một giới hạn nào đó.
Trong việc làm chứng hoặc tường thuật, chúng ta đừng bao giờ phóng đại.
Tuy nhiên, những lời tường thuật trong những ấn phẩm Cơ Đốc nào đó là những sự
phóng đại; những lời tường thuật đó vượt quá chừng mực, vượt quá giới hạn,
không có giới hạn. Vì thế, trong việc làm chứng kinh nghiệm, chúng ta phải ở
trong mức lượng mà Đức Chúa Trời đã ban cho. Chúng ta không nên khoe khoang mà
không có chừng mực, vượt mức, nhưng theo giới hạn mà Đức Chúa Trời của mức lượng
đã chỉ định cho chúng ta. Có một Đấng đang giới hạn và đang đo lường. Đấng này
là Đức Chúa Trời của mức lượng, Đức Chúa Trời Đấng giới hạn mọi sự. Do đó,
chúng ta phải ở trong những giới hạn qui định của Đức Chúa Trời, những giới hạn
được Đức Chúa Trời đo lường. Lời của Phao-lô “để cùng đạt đến nơi anh em” cho
thấy rằng việc ông đến với người Cô-rin-tô thì ở dưới sự cai trị và đo lường của
Đức Chúa Trời.
Câu 14 tiếp: “Vậy, nay chúng tôi đạt đến nơi anh em rồi, thì há có vượt
quá cái giới hạn của chúng tôi sao? Vì thật chúng tôi cũng đã đem Phúc Âm của Đấng
Christ đến nơi anh em trước hết”. Trái ngược với những giáo sư Do Thái giáo,
Phao-lô và các sứ đồ khác đã không vượt quá chính mình. Trước hết, họ đi đến
Châu Âu, và từ đó đến với người Cô-rin-tô, cùng với Phúc Âm. Nếu người Giu-đa đến
đó trước, có lẽ các sứ đồ đã không đi, và điều đó là dấu hiệu cho thấy rằng
Châu Âu không được định cho họ dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời. Điều này có
liên quan đến điểm mà Phao-lô tranh cãi với người Giu-đa.
Trong câu 15 và 16, Phao-lô nói: “Chúng tôi không khoe khoang quá mực
đâu, nghĩa là không khoe về công lao của kẻ khác; nhưng mong rằng khi đức tin
anh em thêm lên, thì công việc của chúng tôi cũng sẽ càng được mở mang hơn giữa
anh em, theo như giới hạn của chúng tôi được rộng rãi càng thêm, đến nỗi được
giảng phúc âm trong các miền phía bên kia anh em nữa, để khỏi khoe khoang về việc
kẻ khác đã làm nên trong giới hạn của họ”. Ở đây, chúng ta thấy các sứ đồ có hi
vọng qua đức tin của tín đồ Cô-rin-tô được lớn lên, chức vụ của họ sẽ được tôn
đại (theo ý nghĩa ca ngợi), bởi được nới rộng và được gia tăng dư dật, nhưng vẫn
theo luật lệ, mức lượng mà Đức Chúa Trời đã chia phần cho họ. Phao-lô hi vọng
được tôn đại giữa người Cô-rin-tô theo giới hạn mức lượng của Đức Chúa Trời.
GIỚI HẠN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Từ câu 13, 14 và 15, chúng ta thấy rằng dù chúng ta mong công tác của
Chúa lan rộng nhưng phải học tập cách ở dưới giới hạn của Đức Chúa Trời. Đừng
mong lan rộng mà không có mức lượng. Loại lan rộng đó chắc chắn sẽ không ở
trong giới hạn của việc bước đi theo Linh. Từ kinh nghiệm, chúng ta có thể làm
chứng rằng nếu lan rộng công tác theo Linh sẽ luôn luôn có một giới hạn nào đó.
Ở bên trong, chúng ta sẽ có ý thức rằng Chúa có ý định lan rộng công tác chỉ đến
một mức nào đó. Hơn nữa, bên ngoài, trong môi trường, Chúa có thể dấy lên những
vấn đề để giới hạn sự lan rộng của công tác. Do đó, bên trong chúng ta không có
bình an để lan rộng công tác vượt quá một mức nào đó, và bên ngoài môi trường
cũng không cho phép chúng ta vượt quá một lằn ranh cụ thể.
Người trẻ chưa ở trong công tác của Chúa nhiều. Tuy nhiên, tôi khích lệ
họ giữ lời này trong lòng, vì một ngày nào đó họ sẽ kinh nghiệm. Tất cả chúng
ta cần học tập rằng trong sự phụng sự Chúa và công tác với Đức Chúa Trời, luôn
luôn có một giới hạn. Điều này cũng đúng trong sự phục vụ Hội thánh.
Chúa đặc biệt quan tâm đến việc giới hạn người trẻ. Nếu người trẻ
không có lòng phụng sự Chúa, Ngài sẽ khuấy động họ để phụng sự Ngài. Nhưng một
khi đã được khuấy động, Ngài sẽ giới hạn họ. Bản chất con người không thích loại
giới hạn này. Ví dụ, cả trong giấc ngủ lẫn trong hoạt động của chúng ta, chúng
ta đều không thích bị giới hạn. Nói cách thuộc linh, khi chúng ta ngủ, Đức Chúa
Trời sẽ khuấy động chúng ta. Nhưng khi chúng ta quá năng động thì Ngài sẽ giới
hạn chúng ta. Tôi biết một số người trẻ bị vấp phạm vì Đức Chúa Trời đã làm điều
này cho họ. Có thể một anh em trẻ muốn làm lãnh đạo giữa những người trẻ. Nếu
người đó làm lãnh đạo thì có thể sau đó lại muốn làm chấp sự hay trưởng lão Hội
thánh. Trong những vấn đề này, có thể người đó mong đẩy nhanh tiến trình. Tuy
nhiên, đường lối của Đức Chúa Trời trước hết là đẩy nhanh chúng ta rồi sau đó
giảm lại, trước hết dựng chúng ta lên rồi sau đó hạ chúng ta xuống. Khi bị hạ
xuống, Ngài sẽ nâng chúng ta lên. Nhưng khi chúng ta lên quá xa, Ngài sẽ hạ
chúng ta xuống. Do đó, đường lối của Đức Chúa Trời đối với chúng ta là lên rồi
xuống, xuống rồi lên. Nếu có thể nhận lấy những đợt lên xuống của Đức Chúa Trời
thì cuối cùng chúng ta sẽ hữu dụng trong công tác của Ngài.
Nhiều người trẻ không chịu nổi cách Đức Chúa Trời đưa lên, hạ xuống.
Sau vài lần đưa lên, hạ xuống, họ muốn bỏ cuộc. Thái độ của họ có thể là: “Nếu
Đức Chúa Trời muốn tôi lên, thì hãy cho tôi lên đến tận trời rồi ở đó luôn cho
đến khi Chúa Jesus trở lại. Nhưng nếu Đức Chúa Trời muốn tôi xuống thì hãy cho
tôi ở dưới. Chứ tôi không thích lên rồi xuống, xuống rồi lên”. Tình trạng không
vui với những đợt lên xuống này của Đức Chúa Trời là sự biểu lộ tính khí của
nhiều người trẻ. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta lên luôn hay xuống luôn.
Ngay cả trong tự nhiên, sự nối tiếp giữa ngày và đêm cũng chứng minh điều này.
Không có một ngày bất tận hay một đêm bất tận. Đúng ra, có sự luân phiên giữa
ngày và đêm, đêm và ngày. Đức Chúa Trời không dựng nên chúng ta để chúng ta có
ngày hay đêm kéo dài trong nhiều năm. Điều này có thể theo đường lối của chúng
ta, nhưng không theo đường lối của Đức Chúa Trời.
HỌC TẬP NHẬN LẤY GIỚI HẠN CỦA CHÚA
Đức Chúa Trời có nhiều cách để đem chúng ta xuống. Một số người trẻ đã
bị đem xuống bởi đời sống hôn nhân. Trước khi lập gia đình, có thể người đó giống
như con chim ưng chao liệng trên không. Người đó có thể dễ dàng nói về một nếp
sống Hội thánh vinh hiển, tuyệt vời. Nhưng không lâu sau đám cưới, dường như nếp
sống Hội thánh không còn vinh diệu nữa. Đức Chúa Trời đang dùng đời sống hôn
nhân để làm lắng dịu một anh em sôi nổi như thế. Trong một vài trường hợp, một
anh em như thế có thể xuống trong một thời gian khá lâu sau hôn nhân. Nhưng cuối
cùng người đó lại lên, dù không theo cách sôi nổi như trước. Đây là dấu hiệu tiến
bộ.
Đôi khi, Đức Chúa Trời có thể dùng một trưởng lão để hạ anh em xuống.
Nếu một điều như thế xảy ra với anh em thì nên nhận biết rằng Đức Chúa Trời là
Đấng đang hạ anh em xuống, chứ không phải trưởng lão đó. Ngài làm điều đó qua
phương tiện trưởng lão. Không cố ý, trưởng lão đó có thể nói với một lời nào đó
và lời đó hạ anh em xuống. Đức Chúa Trời xử lí chúng ta theo cách này vì Ngài
là Đức Chúa Trời của mức lượng đã chia cho chúng ta một mức lượng nào đó.
Tôi nhận ra rằng bị hạ xuống là một vấn đề nghiêm túc. Một số anh em bị
hạ xuống một thời gian dài đến nỗi dường như họ không bao giờ chỗi dậy được.
Nhưng có lẽ sau một thời gian, một lần nữa họ lại được nhắc lên. Không ai trong
chúng ta dám nói tình trạng của anh em khác sẽ là gì. Dường như sự lên xuống
này vượt quá sự kiểm soát hoặc sự điều khiển của chúng ta. Vâng, chúng ta không
kiểm soát hay điều khiển điều này. Do đó, tất cả chúng ta phải nhận thức rằng Đức
Chúa Trời đang kiểm soát và rằng đây là đường lối của Ngài để gìn giữ chúng ta
trong mức lượng của chúng ta.
Ở đất nước này, sự khôi phục của Chúa đã lan rộng đến một mức độ nào
đó. Nhưng dường như có một giới hạn đối với sự lan rộng này. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là Chúa sẽ dừng vĩnh viễn sự lan rộng của sự khôi phục. Vấn
đề ở đây là, theo quan niệm của chúng ta, một khi sự khôi phục của Chúa bắt đầu
lan rộng thì nó sẽ lan rộng ngày càng xa mà không có giới hạn. Tuy nhiên, đây
không phải là quan điểm của Đức Chúa Trời.
Chúng ta không nên nghĩ rằng Phao-lô thuộc linh đến nỗi ông hoàn toàn
khác với chúng ta. Ngay cả ông cũng phải học tập nhận lấy sự giới hạn của Chúa.
Ví dụ, Phao-lô muốn đi La-mã, nhưng ông không mong đi đến đó trong gông xiềng.
Hơn nữa, ông bảo với tín đồ tại La-mã rằng ông mong đi đến Tây Ban Nha qua con
đường của họ (La. 15:24). Phao-lô chưa hề đi Tây Ban Nha, và ông đã đến La-mã
trong xiềng xích. Những xiềng xích đó là sự giới hạn của Chúa, mức lượng của
Ngài. Đức Chúa Trời không phân chia La-mã cho Phao-lô một cách tự do. Thay vì
thế, Đức Chúa Trời dẫn ông đến đó như một tù nhân. Vâng, Phao-lô ở La-mã nhưng
ông ở đó trong tù. Sự nhốt tù đó là một sự giới hạn. La-mã không phải là lãnh
thổ của Phao-lô theo cách không có giới hạn. Đức Chúa Trời tể trị, và bất cứ điều
gì xảy ra với Phao-lô đều ở dưới sự tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Điều này
có nghĩa là xiềng xích và tù đày của Phao-lô là giới hạn có tể trị của Đức Chúa
Trời. Phao-lô sẵn sàng thuận phục sự phân chia của Đức Chúa Trời. Ông không vượt
quá giới hạn này và cũng không phản loạn chống lại giới hạn đó. Trong vấn đề
này, ông không đá vào mũi đót.
HÀNH ĐỘNG TRONG QUYỀN HẠN CỦA ÔNG
Dựa trên nguyên tắc này về sự phân chia của Đức Chúa Trời, Phao-lô nói
với người Cô-rin-tô rằng bất cứ điều gì ông nói và làm đều không vượt quá mức
lượng của ông. Phao-lô luôn luôn hành động và cư xử trong mức lượng của mình. Nếu
dùng thuật ngữ ngày nay thì ông đã hành động trong quyền hạn của ông. Trái với
người Giu-đa, ông không bao giờ vượt quá quyền hạn của mình.
Trong câu 13 đến 15, dường như Phao-lô muốn nói: “Hỡi người Cô-rin-tô,
là một Hội thánh, anh em đã chịu khổ nhiều vì những kẻ rao giảng Do Thái giáo đến.
Những người rao giảng này, dù là Cơ Đốc nhân, nhưng không từ bỏ Do Thái giáo. Một
mặt, họ rao giảng Đấng Christ; mặt khác, họ vẫn còn dạy kinh luật Môi-se. Vì thế,
họ gây rắc rối và làm huỷ hoại nếp sống Hội thánh. Hởi người Cô-rin-tô, anh em
đã bị họ ảnh hưởng. Do đó, anh em phải nhận thức rằng những người Do Thái giáo
này không bao giờ nên đến Cô-rin-tô. Đức Chúa Trời đã không chia thành phố
Cô-rin-tô cho họ; Cô-rin-tô không ở trong quyền hạn của họ. Thật ra, Cô-rin-tô
là quyền hạn của tôi, là lãnh thổ của tôi”. Đây là quan điểm của Phao-lô trong
những câu này. Tuy nhiên, đối với ông rất khó nói điều này cách thẳng thắn, trực
tiếp. Nhưng ở đây hàm ý rằng Phao-lô đã lên án những người Giu-đa vì họ đến
Cô-rin-tô. Vì thế, dường như Phao-lô nói: “Chúng tôi không vượt quá chính mình
như người Giu-đa đã làm. Trước hết chúng tôi đem Phúc Âm của Đấng Christ đến với
anh em. Đó là một dấu hiệu cho thấy rằng Cô-rin-tô đã được chia phần cho chúng
tôi. Chúng tôi đến theo sự cai trị của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã chia phần
Cô-rin-tô cho chúng tôi, chứ không cho người Giu-đa. Thật ra, Đức Chúa Trời đã
không phân chia bất cứ điều gì cho người Giu-đa. Họ không nên đi đâu cả. Chuyển
động của họ hoàn toàn bất pháp trước mặt Đức Chúa Trời và không có quyền hạn
đúng đắn”. Đây là tư tưởng cơ bản trong những câu này, và đây là cảm nhận trong
linh của Phao-lô khi ông viết Thư này.
Các sứ đồ luôn luôn chuyển động theo giới hạn của Đức Chúa Trời. Bất cứ
điều gì Đức Chúa Trời chia phần cho họ đều trở thành quyền hạn của họ, và người
khác không nên xen vào. Nếu Đức Chúa Trời đã phân chia lãnh thổ nào đó cho người
Giu-đa thì các sứ đồ hẳn đã không đi đến lãnh thổ đó, vì làm như vậy, họ đã vượt
quá chính mình. Đây là điều mà Phao-lô đang nói ở đây.
Ngày nay, nhiều người rao giảng và những giáo sư đã vượt quá chính
mình và đã xen vào quyền hạn của người khác. Sự vượt quá và xen vào này luôn
luôn gây rắc rối.
Ở TRONG MỨC LƯỢNG ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI PHÂN CHIA
Trong sự phục vụ Hội thánh, chúng ta cần nhận thức rằng Đức Chúa Trời
chỉ chia đủ phần cho chúng ta, và chúng ta không nên vượt quá chính mình. Chúng
ta cần biết giới hạn, quyền hạn của mình, và không vượt quá giới hạn đó xâm phạm
lãnh thổ của người khác. Cũng như Phao-lô, chúng ta nên hành động và chuyển động
theo giới hạn của chúng ta, tức là theo mức lượng mà Đức Chúa Trời đã phân chia
cho chúng ta.
Từ sự kêu gọi của người Ma-xê-đoan mà ông đã nhận, Phao-lô biết rằng
Cô-rin-tô nằm trong mức lượng của ông, tức sự phân chia cho ông. Từ Công Vụ
chương 16, chúng ta biết rằng Phao-lô sáng tỏ việc Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông
đến Châu Âu. Ông đem Phúc Âm của Đấng Christ đến A-chai theo giới hạn của Đức
Chúa Trời. Cả Ma-xê-đoan lẫn A-chai đều ở dưới giới hạn của Phao-lô. Vì thế,
người Giu-đa không nên bước vào lãnh thổ này mà gây rắc rối. Đây là cảm nhận
sâu sắc bên trong Phao-lô khi ông viết những câu này.
Trong phần này của 2 Cô-rin-tô, Phao-lô đang bênh vực cho uy quyền sứ
đồ của ông. Uy quyền này có liên quan đến quyền hạn. Nếu Phao-lô không có quyền
hạn gì thì uy quyền của ông sẽ là gì? Trong sự bênh vực uy quyền sứ đồ của
mình, Phao-lô cư xử không vượt quá giới hạn mức lượng của ông. Ông là một gương
tốt của một người hoàn toàn ở dưới sự giới hạn của Đức Chúa Trời.
Tôi khích lệ những người trẻ, đặc biệt nghiên cứu phần Lời này và học
tập từ đó cách để cư xử trong khi phục vụ Hội thánh và cách chuyển động trong sự
khôi phục của Chúa. Hỡi những người trẻ, anh em phải biết mức lượng của anh em,
giới hạn của anh em. Điều này có nghĩa là anh em phải biết Đức Chúa Trời phân
chia cho anh em bao nhiêu, Đức Chúa Trời chia phần cho anh em bao nhiêu. Giới hạn
này, hạn chế này là một sự xử lí thực tiễn xác thịt của chúng ta. Con người
thiên nhiên của chúng ta muốn không bị giới hạn. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời biết
nan đề của chúng ta. Do đó, Ngài dựng lên những ranh giới và những giới hạn để
chúng ta có thể ở trong mức lượng mà Ngài đã phân chia cho chúng ta.
--
PHAO-LÔ BÊNH VỰC UY QUYỀN SỨ ĐỒ CỦA ÔNG (2)
Đọc Kinh Thánh: 2Cô. 10:7-18
Trong 10:7-18, Phao-lô nói về thước đo theo luật lệ của Đức Chúa Trời.
Chúng ta hãy xem xét phần lời này từng câu một.
NHỮNG PHƯƠNG DIỆN VỀ UY QUYỀN SỨ ĐỒ
Câu 7 chép: “Anh em cứ xem theo bề ngoài à! Bằng có ai tự tin mình thuộc
về Christ, thì hãy tự nghĩ lại rằng kẻ đó thuộc về Christ thể nào, thì chúng
tôi cũng thuộc về Ngài thể ấy”. Đây là một lời thẳng thắn, rất khác với những lời
trong chương 6 và 7. Chắc chắn, người Giu-đa là những người tự tin rằng họ thuộc
về Christ. Dù những người Giu-đa này là Cơ Đốc nhân nhưng họ không sẵn sàng làm
một với Phao-lô trong chức vụ của ông. Họ công bố thuộc về Christ. Do đó,
Phao-lô đã tìm cách làm sáng tỏ rằng các sứ đồ chắc chắn cũng thuộc về Christ.
Điều này cho thấy rằng thuộc về Christ là một vấn đề quan trọng. Điều đó là sống
còn đối với đời sống Cơ Đốc và chức vụ.
Trong câu 8 và 9, Phao-lô nói: “Dầu tôi khoe khoang hơi quá về quyền
bính của chúng tôi mà Chúa đã ban cho để gây dựng anh em, chớ chẳng phải để
đánh đổ anh em, thì tôi cũng không đến đỗi hổ thẹn đâu, để tôi khỏi hình như hống
hách anh em bằng thư từ của tôi”. Câu 8 cho thấy trong quá khứ, Phao-lô đã nói
điều gì đó với người Cô-rin-tô về uy quyền sứ đồ của ông. Uy quyền sứ đồ không
phải là cai trị trên tín đồ theo ý nghĩa thiên nhiên, nhưng để xây dựng họ.
Trong câu 9, Phao-lô nói về việc tín đồ sợ hãi do thư từ. Có thể điều
này nói về thư thứ nhất của Phao-lô gởi cho người Cô-rin-tô. Trong thư đó,
Phao-lô đã nói đến uy quyền sứ đồ của ông. Một số người Cô-rin-tô có thể đã xem
lời đó làm họ sợ. Nhưng ở đây, Phao-lô chỉ ra rằng điều đó không nên làm cho họ
sợ.
Trong câu 10, Phao-lô nói tiếp: “Vì có kẻ nói rằng: ‘Các thư của người
nặng nề và mạnh bạo, nhưng đến khi có mặt thì người yếu đuối và lời nói chẳng
ra gì’”. Điều này xác quyết những gì chúng ta đã nói trong bài trước về Phao-lô
khiêm ti khi ở cùng người Cô-rin-tô. Ông nhu mì và không mạnh mẽ chút nào về mặt
thể lực. Hơn nữa, lời nói của ông, sự phát ngôn của ông cũng chẳng ra gì, hoặc
không quan trọng gì. Chữ chẳng ra gì theo tiếng Hy Lạp có nghĩa đen là “chẳng
làm được gì”.
Trong câu 11, Phao-lô nói tiếp: “Kẻ nói như vậy khá nghĩ rằng khi
chúng tôi vắng mặt, lời trong thư thể nào, thì khi có mặt, việc làm cũng thể ấy”.
Dù Phao-lô dường như khi có mặt thì khác với con người của ông ở trong thư,
nhưng thực ra ông vẫn như vậy. Chúng ta nên học tập ông đừng chính trị hay lịch
sự thiên nhiên, nhưng phải linh động. Khi ở với người khác, chúng ta không nên
dạn dĩ hay mạnh mẽ. Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta thật sự yếu
đuối hay vô tâm. Đúng ra, có thể chúng ta tránh làm người khác vấp phạm cách
không cần thiết. Tuy nhiên, có lúc chúng ta cần phải nói điều gì đó cách dạn dĩ
và mạnh mẽ. Đôi khi, chúng ta cần mạnh mẽ trong việc viết thư, nhưng chúng ta
không phải lúc nào cũng mạnh mẽ. Những lúc khác, lẽ ra chúng ta không nên quá dạn
dĩ trước hiện diện của ai đó, tuy nhiên chúng ta lại dạn dĩ. Điều này cho thấy
rằng chúng ta không khôn ngoan, không linh động, cũng không hiền hoà. Tất cả
chúng ta hãy học tập thành thật, không chính trị. Đồng thời, phải học tập linh
động. Một mặt, hãy cố gắng đừng làm tổn thương cảm xúc của người khác; mặt
khác, vào lúc nào đó chúng ta có thể cần phải nói thẳng trong lẽ thật với một mức
độ dạn dĩ nào đó.
Trong câu 12, Phao-lô nói: “Thật chúng tôi không dám đem mình liệt vào
hoặc sánh với những người kia là kẻ hay tự tiến dẫn mình. Chính họ lấy mình đo
mình, lấy mình sánh mình, thì thật bất thông”. Những người bị vướng vào hoặc bị
gài bẫy trong chính họ thì không có sự hiểu biết đúng đắn.
ĐỪNG KHOE KHOANG QUÁ MỨC
Câu 13 chép: “Song chúng tôi chẳng muốn khoe khoang quá mực, chỉ theo
mực của giới hạn mà Đức Chúa Trời đã chia phần cho chúng tôi làm mực, để cùng đạt
đến nơi anh em”. Vị sứ đồ thật dạn dĩ, nhưng ông dạn dĩ có giới hạn. Điều này
cho thấy rằng ông ở dưới giới hạn của Chúa. Sự khoe khoang của ông theo mực của
giới hạn mà Đức Chúa Trời của sự giới hạn, Đức Chúa Trời của mực thước đã chỉ định
cho ông. Chức vụ của Phao-lô đối với thế giới phi Do Thái, kể cả Cô-rin-tô đều
theo giới hạn của Đức Chúa Trời (Êph. 3:1-2, 8; Ga. 2:8). Vì thế, sự khoe
khoang của ông cũng ở trong giới hạn này, không phải là không có chừng mực như
những giáo sư Do Thái giáo. Chữ giới hạn trong câu 13 nghĩa đen là cây thước
đo, như là như là cây thước của thợ mộc.
Chúng ta đừng bao giờ khoe khoang mà không có chừng mực. Trong việc
làm chứng về những gì chúng ta đã học nơi Chúa, chúng ta nên có giới hạn, có chừng
mực. Từ giới hạn trong câu 13 chỉ ra việc bị Đức Chúa Trời giới hạn. Đức Chúa
Trời đã chia cho chúng ta vừa đủ để công tác và kinh nghiệm. Hơn nữa, Ngài cũng
ban cho chúng ta vừa đủ để vui hưởng. Do đó, khi làm chứng về công tác, kinh
nghiệm hay vui hưởng Chúa, chúng ta phải làm chứng có chừng mực, tức là, trong
một giới hạn nào đó.
Trong việc làm chứng hoặc tường thuật, chúng ta đừng bao giờ phóng đại.
Tuy nhiên, những lời tường thuật trong những ấn phẩm Cơ Đốc nào đó là những sự
phóng đại; những lời tường thuật đó vượt quá chừng mực, vượt quá giới hạn,
không có giới hạn. Vì thế, trong việc làm chứng kinh nghiệm, chúng ta phải ở
trong mức lượng mà Đức Chúa Trời đã ban cho. Chúng ta không nên khoe khoang mà
không có chừng mực, vượt mức, nhưng theo giới hạn mà Đức Chúa Trời của mức lượng
đã chỉ định cho chúng ta. Có một Đấng đang giới hạn và đang đo lường. Đấng này
là Đức Chúa Trời của mức lượng, Đức Chúa Trời Đấng giới hạn mọi sự. Do đó,
chúng ta phải ở trong những giới hạn qui định của Đức Chúa Trời, những giới hạn
được Đức Chúa Trời đo lường. Lời của Phao-lô “để cùng đạt đến nơi anh em” cho
thấy rằng việc ông đến với người Cô-rin-tô thì ở dưới sự cai trị và đo lường của
Đức Chúa Trời.
Câu 14 tiếp: “Vậy, nay chúng tôi đạt đến nơi anh em rồi, thì há có vượt
quá cái giới hạn của chúng tôi sao? Vì thật chúng tôi cũng đã đem Phúc Âm của Đấng
Christ đến nơi anh em trước hết”. Trái ngược với những giáo sư Do Thái giáo,
Phao-lô và các sứ đồ khác đã không vượt quá chính mình. Trước hết, họ đi đến
Châu Âu, và từ đó đến với người Cô-rin-tô, cùng với Phúc Âm. Nếu người Giu-đa đến
đó trước, có lẽ các sứ đồ đã không đi, và điều đó là dấu hiệu cho thấy rằng
Châu Âu không được định cho họ dưới sự cai trị của Đức Chúa Trời. Điều này có
liên quan đến điểm mà Phao-lô tranh cãi với người Giu-đa.
Trong câu 15 và 16, Phao-lô nói: “Chúng tôi không khoe khoang quá mực
đâu, nghĩa là không khoe về công lao của kẻ khác; nhưng mong rằng khi đức tin
anh em thêm lên, thì công việc của chúng tôi cũng sẽ càng được mở mang hơn giữa
anh em, theo như giới hạn của chúng tôi được rộng rãi càng thêm, đến nỗi được
giảng phúc âm trong các miền phía bên kia anh em nữa, để khỏi khoe khoang về việc
kẻ khác đã làm nên trong giới hạn của họ”. Ở đây, chúng ta thấy các sứ đồ có hi
vọng qua đức tin của tín đồ Cô-rin-tô được lớn lên, chức vụ của họ sẽ được tôn
đại (theo ý nghĩa ca ngợi), bởi được nới rộng và được gia tăng dư dật, nhưng vẫn
theo luật lệ, mức lượng mà Đức Chúa Trời đã chia phần cho họ. Phao-lô hi vọng
được tôn đại giữa người Cô-rin-tô theo giới hạn mức lượng của Đức Chúa Trời.
GIỚI HẠN CỦA ĐỨC CHÚA TRỜI
Từ câu 13, 14 và 15, chúng ta thấy rằng dù chúng ta mong công tác của
Chúa lan rộng nhưng phải học tập cách ở dưới giới hạn của Đức Chúa Trời. Đừng
mong lan rộng mà không có mức lượng. Loại lan rộng đó chắc chắn sẽ không ở
trong giới hạn của việc bước đi theo Linh. Từ kinh nghiệm, chúng ta có thể làm
chứng rằng nếu lan rộng công tác theo Linh sẽ luôn luôn có một giới hạn nào đó.
Ở bên trong, chúng ta sẽ có ý thức rằng Chúa có ý định lan rộng công tác chỉ đến
một mức nào đó. Hơn nữa, bên ngoài, trong môi trường, Chúa có thể dấy lên những
vấn đề để giới hạn sự lan rộng của công tác. Do đó, bên trong chúng ta không có
bình an để lan rộng công tác vượt quá một mức nào đó, và bên ngoài môi trường
cũng không cho phép chúng ta vượt quá một lằn ranh cụ thể.
Người trẻ chưa ở trong công tác của Chúa nhiều. Tuy nhiên, tôi khích lệ
họ giữ lời này trong lòng, vì một ngày nào đó họ sẽ kinh nghiệm. Tất cả chúng
ta cần học tập rằng trong sự phụng sự Chúa và công tác với Đức Chúa Trời, luôn
luôn có một giới hạn. Điều này cũng đúng trong sự phục vụ Hội thánh.
Chúa đặc biệt quan tâm đến việc giới hạn người trẻ. Nếu người trẻ
không có lòng phụng sự Chúa, Ngài sẽ khuấy động họ để phụng sự Ngài. Nhưng một
khi đã được khuấy động, Ngài sẽ giới hạn họ. Bản chất con người không thích loại
giới hạn này. Ví dụ, cả trong giấc ngủ lẫn trong hoạt động của chúng ta, chúng
ta đều không thích bị giới hạn. Nói cách thuộc linh, khi chúng ta ngủ, Đức Chúa
Trời sẽ khuấy động chúng ta. Nhưng khi chúng ta quá năng động thì Ngài sẽ giới
hạn chúng ta. Tôi biết một số người trẻ bị vấp phạm vì Đức Chúa Trời đã làm điều
này cho họ. Có thể một anh em trẻ muốn làm lãnh đạo giữa những người trẻ. Nếu
người đó làm lãnh đạo thì có thể sau đó lại muốn làm chấp sự hay trưởng lão Hội
thánh. Trong những vấn đề này, có thể người đó mong đẩy nhanh tiến trình. Tuy
nhiên, đường lối của Đức Chúa Trời trước hết là đẩy nhanh chúng ta rồi sau đó
giảm lại, trước hết dựng chúng ta lên rồi sau đó hạ chúng ta xuống. Khi bị hạ
xuống, Ngài sẽ nâng chúng ta lên. Nhưng khi chúng ta lên quá xa, Ngài sẽ hạ
chúng ta xuống. Do đó, đường lối của Đức Chúa Trời đối với chúng ta là lên rồi
xuống, xuống rồi lên. Nếu có thể nhận lấy những đợt lên xuống của Đức Chúa Trời
thì cuối cùng chúng ta sẽ hữu dụng trong công tác của Ngài.
Nhiều người trẻ không chịu nổi cách Đức Chúa Trời đưa lên, hạ xuống.
Sau vài lần đưa lên, hạ xuống, họ muốn bỏ cuộc. Thái độ của họ có thể là: “Nếu
Đức Chúa Trời muốn tôi lên, thì hãy cho tôi lên đến tận trời rồi ở đó luôn cho
đến khi Chúa Jesus trở lại. Nhưng nếu Đức Chúa Trời muốn tôi xuống thì hãy cho
tôi ở dưới. Chứ tôi không thích lên rồi xuống, xuống rồi lên”. Tình trạng không
vui với những đợt lên xuống này của Đức Chúa Trời là sự biểu lộ tính khí của
nhiều người trẻ. Đức Chúa Trời không muốn chúng ta lên luôn hay xuống luôn.
Ngay cả trong tự nhiên, sự nối tiếp giữa ngày và đêm cũng chứng minh điều này.
Không có một ngày bất tận hay một đêm bất tận. Đúng ra, có sự luân phiên giữa
ngày và đêm, đêm và ngày. Đức Chúa Trời không dựng nên chúng ta để chúng ta có
ngày hay đêm kéo dài trong nhiều năm. Điều này có thể theo đường lối của chúng
ta, nhưng không theo đường lối của Đức Chúa Trời.
HỌC TẬP NHẬN LẤY GIỚI HẠN CỦA CHÚA
Đức Chúa Trời có nhiều cách để đem chúng ta xuống. Một số người trẻ đã
bị đem xuống bởi đời sống hôn nhân. Trước khi lập gia đình, có thể người đó giống
như con chim ưng chao liệng trên không. Người đó có thể dễ dàng nói về một nếp
sống Hội thánh vinh hiển, tuyệt vời. Nhưng không lâu sau đám cưới, dường như nếp
sống Hội thánh không còn vinh diệu nữa. Đức Chúa Trời đang dùng đời sống hôn
nhân để làm lắng dịu một anh em sôi nổi như thế. Trong một vài trường hợp, một
anh em như thế có thể xuống trong một thời gian khá lâu sau hôn nhân. Nhưng cuối
cùng người đó lại lên, dù không theo cách sôi nổi như trước. Đây là dấu hiệu tiến
bộ.
Đôi khi, Đức Chúa Trời có thể dùng một trưởng lão để hạ anh em xuống.
Nếu một điều như thế xảy ra với anh em thì nên nhận biết rằng Đức Chúa Trời là
Đấng đang hạ anh em xuống, chứ không phải trưởng lão đó. Ngài làm điều đó qua
phương tiện trưởng lão. Không cố ý, trưởng lão đó có thể nói với một lời nào đó
và lời đó hạ anh em xuống. Đức Chúa Trời xử lí chúng ta theo cách này vì Ngài
là Đức Chúa Trời của mức lượng đã chia cho chúng ta một mức lượng nào đó.
Tôi nhận ra rằng bị hạ xuống là một vấn đề nghiêm túc. Một số anh em bị
hạ xuống một thời gian dài đến nỗi dường như họ không bao giờ chỗi dậy được.
Nhưng có lẽ sau một thời gian, một lần nữa họ lại được nhắc lên. Không ai trong
chúng ta dám nói tình trạng của anh em khác sẽ là gì. Dường như sự lên xuống
này vượt quá sự kiểm soát hoặc sự điều khiển của chúng ta. Vâng, chúng ta không
kiểm soát hay điều khiển điều này. Do đó, tất cả chúng ta phải nhận thức rằng Đức
Chúa Trời đang kiểm soát và rằng đây là đường lối của Ngài để gìn giữ chúng ta
trong mức lượng của chúng ta.
Ở đất nước này, sự khôi phục của Chúa đã lan rộng đến một mức độ nào
đó. Nhưng dường như có một giới hạn đối với sự lan rộng này. Tuy nhiên, điều
này không có nghĩa là Chúa sẽ dừng vĩnh viễn sự lan rộng của sự khôi phục. Vấn
đề ở đây là, theo quan niệm của chúng ta, một khi sự khôi phục của Chúa bắt đầu
lan rộng thì nó sẽ lan rộng ngày càng xa mà không có giới hạn. Tuy nhiên, đây
không phải là quan điểm của Đức Chúa Trời.
Chúng ta không nên nghĩ rằng Phao-lô thuộc linh đến nỗi ông hoàn toàn
khác với chúng ta. Ngay cả ông cũng phải học tập nhận lấy sự giới hạn của Chúa.
Ví dụ, Phao-lô muốn đi La-mã, nhưng ông không mong đi đến đó trong gông xiềng.
Hơn nữa, ông bảo với tín đồ tại La-mã rằng ông mong đi đến Tây Ban Nha qua con
đường của họ (La. 15:24). Phao-lô chưa hề đi Tây Ban Nha, và ông đã đến La-mã
trong xiềng xích. Những xiềng xích đó là sự giới hạn của Chúa, mức lượng của
Ngài. Đức Chúa Trời không phân chia La-mã cho Phao-lô một cách tự do. Thay vì
thế, Đức Chúa Trời dẫn ông đến đó như một tù nhân. Vâng, Phao-lô ở La-mã nhưng
ông ở đó trong tù. Sự nhốt tù đó là một sự giới hạn. La-mã không phải là lãnh
thổ của Phao-lô theo cách không có giới hạn. Đức Chúa Trời tể trị, và bất cứ điều
gì xảy ra với Phao-lô đều ở dưới sự tể trị tối cao của Đức Chúa Trời. Điều này
có nghĩa là xiềng xích và tù đày của Phao-lô là giới hạn có tể trị của Đức Chúa
Trời. Phao-lô sẵn sàng thuận phục sự phân chia của Đức Chúa Trời. Ông không vượt
quá giới hạn này và cũng không phản loạn chống lại giới hạn đó. Trong vấn đề
này, ông không đá vào mũi đót.
HÀNH ĐỘNG TRONG QUYỀN HẠN CỦA ÔNG
Dựa trên nguyên tắc này về sự phân chia của Đức Chúa Trời, Phao-lô nói
với người Cô-rin-tô rằng bất cứ điều gì ông nói và làm đều không vượt quá mức
lượng của ông. Phao-lô luôn luôn hành động và cư xử trong mức lượng của mình. Nếu
dùng thuật ngữ ngày nay thì ông đã hành động trong quyền hạn của ông. Trái với
người Giu-đa, ông không bao giờ vượt quá quyền hạn của mình.
Trong câu 13 đến 15, dường như Phao-lô muốn nói: “Hỡi người Cô-rin-tô,
là một Hội thánh, anh em đã chịu khổ nhiều vì những kẻ rao giảng Do Thái giáo đến.
Những người rao giảng này, dù là Cơ Đốc nhân, nhưng không từ bỏ Do Thái giáo. Một
mặt, họ rao giảng Đấng Christ; mặt khác, họ vẫn còn dạy kinh luật Môi-se. Vì thế,
họ gây rắc rối và làm huỷ hoại nếp sống Hội thánh. Hởi người Cô-rin-tô, anh em
đã bị họ ảnh hưởng. Do đó, anh em phải nhận thức rằng những người Do Thái giáo
này không bao giờ nên đến Cô-rin-tô. Đức Chúa Trời đã không chia thành phố
Cô-rin-tô cho họ; Cô-rin-tô không ở trong quyền hạn của họ. Thật ra, Cô-rin-tô
là quyền hạn của tôi, là lãnh thổ của tôi”. Đây là quan điểm của Phao-lô trong
những câu này. Tuy nhiên, đối với ông rất khó nói điều này cách thẳng thắn, trực
tiếp. Nhưng ở đây hàm ý rằng Phao-lô đã lên án những người Giu-đa vì họ đến
Cô-rin-tô. Vì thế, dường như Phao-lô nói: “Chúng tôi không vượt quá chính mình
như người Giu-đa đã làm. Trước hết chúng tôi đem Phúc Âm của Đấng Christ đến với
anh em. Đó là một dấu hiệu cho thấy rằng Cô-rin-tô đã được chia phần cho chúng
tôi. Chúng tôi đến theo sự cai trị của Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời đã chia phần
Cô-rin-tô cho chúng tôi, chứ không cho người Giu-đa. Thật ra, Đức Chúa Trời đã
không phân chia bất cứ điều gì cho người Giu-đa. Họ không nên đi đâu cả. Chuyển
động của họ hoàn toàn bất pháp trước mặt Đức Chúa Trời và không có quyền hạn
đúng đắn”. Đây là tư tưởng cơ bản trong những câu này, và đây là cảm nhận trong
linh của Phao-lô khi ông viết Thư này.
Các sứ đồ luôn luôn chuyển động theo giới hạn của Đức Chúa Trời. Bất cứ
điều gì Đức Chúa Trời chia phần cho họ đều trở thành quyền hạn của họ, và người
khác không nên xen vào. Nếu Đức Chúa Trời đã phân chia lãnh thổ nào đó cho người
Giu-đa thì các sứ đồ hẳn đã không đi đến lãnh thổ đó, vì làm như vậy, họ đã vượt
quá chính mình. Đây là điều mà Phao-lô đang nói ở đây.
Ngày nay, nhiều người rao giảng và những giáo sư đã vượt quá chính
mình và đã xen vào quyền hạn của người khác. Sự vượt quá và xen vào này luôn
luôn gây rắc rối.
Ở TRONG MỨC LƯỢNG ĐƯỢC ĐỨC CHÚA TRỜI PHÂN CHIA
Trong sự phục vụ Hội thánh, chúng ta cần nhận thức rằng Đức Chúa Trời
chỉ chia đủ phần cho chúng ta, và chúng ta không nên vượt quá chính mình. Chúng
ta cần biết giới hạn, quyền hạn của mình, và không vượt quá giới hạn đó xâm phạm
lãnh thổ của người khác. Cũng như Phao-lô, chúng ta nên hành động và chuyển động
theo giới hạn của chúng ta, tức là theo mức lượng mà Đức Chúa Trời đã phân chia
cho chúng ta.
Từ sự kêu gọi của người Ma-xê-đoan mà ông đã nhận, Phao-lô biết rằng
Cô-rin-tô nằm trong mức lượng của ông, tức sự phân chia cho ông. Từ Công Vụ
chương 16, chúng ta biết rằng Phao-lô sáng tỏ việc Đức Chúa Trời đã kêu gọi ông
đến Châu Âu. Ông đem Phúc Âm của Đấng Christ đến A-chai theo giới hạn của Đức
Chúa Trời. Cả Ma-xê-đoan lẫn A-chai đều ở dưới giới hạn của Phao-lô. Vì thế,
người Giu-đa không nên bước vào lãnh thổ này mà gây rắc rối. Đây là cảm nhận
sâu sắc bên trong Phao-lô khi ông viết những câu này.
Trong phần này của 2 Cô-rin-tô, Phao-lô đang bênh vực cho uy quyền sứ
đồ của ông. Uy quyền này có liên quan đến quyền hạn. Nếu Phao-lô không có quyền
hạn gì thì uy quyền của ông sẽ là gì? Trong sự bênh vực uy quyền sứ đồ của
mình, Phao-lô cư xử không vượt quá giới hạn mức lượng của ông. Ông là một gương
tốt của một người hoàn toàn ở dưới sự giới hạn của Đức Chúa Trời.
Tôi khích lệ những người trẻ, đặc biệt nghiên cứu phần Lời này và học
tập từ đó cách để cư xử trong khi phục vụ Hội thánh và cách chuyển động trong sự
khôi phục của Chúa. Hỡi những người trẻ, anh em phải biết mức lượng của anh em,
giới hạn của anh em. Điều này có nghĩa là anh em phải biết Đức Chúa Trời phân
chia cho anh em bao nhiêu, Đức Chúa Trời chia phần cho anh em bao nhiêu. Giới hạn
này, hạn chế này là một sự xử lí thực tiễn xác thịt của chúng ta. Con người
thiên nhiên của chúng ta muốn không bị giới hạn. Tuy nhiên, Đức Chúa Trời biết
nan đề của chúng ta. Do đó, Ngài dựng lên những ranh giới và những giới hạn để
chúng ta có thể ở trong mức lượng mà Ngài đã phân chia cho chúng ta.
--