CHẤP SỰ CỦA GIAO ƯỚC
MỚI (3)
Đọc Kinh Thánh: 2
Cô-rin-tô 4:7-15
Chương 3 và 4 của
Sách 2 Cô-rin-tô là hai chương quan trọng nhất của Sách 1, 2 Cô-rin-tô. Không
có chương nào khác trong hai Thư Tín này là có liên hệ đến sự cấu tạo Christ để
kinh nghiệm sự sống sâu xa hơn. Trước hết, hai chương này khải thị các sứ đồ là
những chấp sự của giao ước mới đã được cấu tạo như thế nào. Họ được tái tổ chức,
tái sắp xếp để được làm thành những chấp sự của giao ước mới.
Phao-lô tự cho mình
là tội khôi. Làm thế nào một kẻ phản loạn chống nghịch Đức Chúa Trời như thế lại
có thể trở thành một chấp sự của giao ước mới, tức chấp sự của Christ để thực
hiện gia tể của Đức Chúa Trời? Hoán cải một kẻ phản loạn chống nghịch Đức Chúa
Trời thành một chấp sự của Christ hầu hoàn thành sự quản trị của Đức Chúa Trời
trong thời đại Tân Ước chắc chắn là một vấn đề lớn.
Để Phao-lô trở
thành chấp sự của Christ, trước hết ông phải được tái sinh và sau đó phải được
tái cấu tạo. Sự tái sinh không đủ để làm cho một người trở thành chấp sự của
giao ước mới nên cũng rất cần được tái tổ chức, tái sắp xếp, tái cấu tạo. Tuy
nhiên, một sự cấu tạo mới đòi hỏi một yếu tố mới. Không có yếu tố làm thể yếu cấu
tạo thì chúng ta không thể được cấu tạo điều gì cả. Sự cứu chuộc của Đấng
Christ đem chúng ta về với Đức Chúa Trời, nhưng điều đó không thực hiện công
tác cấu tạo. Công tác này đòi hỏi một số yếu tố nào đó ngoài huyết cứu chuộc của
Đấng Christ. Yếu tố này không chỉ là sự sống, hay Linh mà là chính Đức Chúa Trời
đã trải-qua-tiến-trình.
Tôi muốn anh em chú
ý đến những bước của tiến trình mà Đức Chúa Trời đã-trải qua: sự nhục hoá, đời
sống làm người, sự đóng đinh, và sự phục sinh. Bốn bước chính trong tiến trình
của Đức Chúa Trời cũng là những thành phần của Đức Chúa Trời đã-trải-qua-tiến-trình
như là những yếu tố mà chúng ta được cấu tạo. Những thành phần này được hình
bóng bởi bốn hương liệu được tổng hợp với dầu ô-liu làm dầu xức trong Xuất Ai Cập
Kí chương 30. Dầu ô-liu là yếu tố căn bản, và bốn hương liệu là những thành phần
được tổng hợp với yếu tố này. Sự tổng hợp được sản sinh như là kết quả của tiến
trình này đó là dầu xức cùng với các nguyên liệu của nó.
Đức Chúa Trời là
Linh, tức dầu ô-liu, là yếu tố căn bản. Bốn hương liệu có liên hệ đến sự nhục
hoá, đời sống làm người, sự đóng đinh và sự phục sinh. Sự nhục hoá đem thần
tánh vào trong nhân tánh tạo thành một thực thể. Nhưng về mặt bản chất, thần
tánh không thay đổi và nhân tánh cũng không thay đổi. Không, thần tánh vẫn là
thần tánh, và nhân tánh vẫn là nhân tánh. Điều này được minh hoạ bởi sự hoà quyện
của dầu với bột mịn trong của lễ bột mịn. Dầu và bột được hoà quyện với nhau để
tạo nên một thực thể có hai bản chất. Tuy nhiên, mỗi bản chất vẫn còn riêng biệt
và trọn vẹn. Dầu không mất bản chất của dầu, và bột cũng không thay đổi bản chất
của bột. Tuy nhiên, dầu và bột được hòa quyện với nhau để sản sinh ra một thực
thể. Nhưng thực thể này không phải là bản chất thứ ba, tức là điều gì đó không
phải dầu cũng không phải bột. Đúng ra, đó là một thực thể hoàn chỉnh có hai bản
chất, bản chất dầu và bản chất bột. Đây là minh hoạ về sự nhục hoá đem thần
tánh vào trong nhân tánh, làm cho cả hai thành một và làm cho cả hai sống như một.
Chuá Jesus, một
Thân Vị kỳ diệu có hai bản chất: thần tánh và nhân tánh đã sống trong gia đình
một người thợ mộc ở Na-xa-rét trong ba mươi năm. Sau khi hoàn thành chức vụ,
Ngài chịu đóng đinh. Đời sống làm người của Ngài hàm ý rằng Ngài đã trải qua mọi
sự trong nhân tánh liên hệ đến sự sáng tạo lần thứ nhất. Khi Ngài chịu đóng
đinh, Ngài đã đem toàn bộ sáng tạo cũ lên thập tự giá và kết liễu nó. Vì sáng tạo
cũ đã bị kết liễu nên chúng ta không nên bị các nan đề của mình quấy rầy. Trong
cách nhìn của Đức Chúa Trời, tất cả những nan đề này đã bị kết liễu. Đức Chúa
Trời đang ngồi trên ngai có thể nói với Sa-tan: “Sa-tan bé nhỏ kia, ngươi đang
cố làm gì vậy? Ngươi vẫn còn gây rối hả? Ta sẽ cho ngươi thêm chút thời gian nữa
để chơi. Tuy nhiên, ngươi phải nhận biết rằng Ta đã kết liễu ngươi rồi. Ngươi
cùng với sáng tạo cũ đã bị kết liễu rồi”. Sa-tan và sáng tạo cũ đã bị kết liễu,
và chúng ta cũng bị đã kết liễu bởi sự chết của Christ trên thập tự giá. Sự kết
liễu này là ý nghĩa thật của sự đóng đinh.
Qua sự phục sinh,
Christ đem những người được chọn và được chuộc của Đức Chúa Trời vào trong Đức
Chúa Trời. Sự nhục hoá đem Đức Chúa Trời vào trong con người; sự phục sinh đem
con người vào trong Đức Chúa Trời. Ngày nay, là những người được chuộc của Đức
Chúa Trời, chúng ta không chỉ có Đức Chúa Trời bên trong; chúng ta cũng ở trong
Đức Chúa Trời. Thật kỳ diệu khi có Đức Chúa Trời bên trong chúng ta, nhưng còn
kỳ diệu hơn khi chúng ta ở trong Đức Chúa Trời.
Có lẽ anh em không
ý thức lắm về việc anh em ở trong Đức Chúa Trời. Bởi sự thương xót của Chuá,
tôi có thể làm chứng một cách quả quyết rằng tôi có cảm nhận, ý thức rằng tôi
là một người ở trong Đức Chúa Trời. Bề ngoài, tôi là một người đang sống trên đất;
nhưng thật ra, tôi là một người ở trong Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời ở trong
tôi, và tôi ở trong Ngài.
Đức Chúa Trời đã được
đem vào trong chúng ta qua sự nhục hoá, và chúng ta đã được đem vào trong Đức
Chúa Trời qua sự phục sinh của Đấng Christ. Đây là Đức Chúa Trời Tam-Nhất, Đức
Chúa Trời đã-trải-qua-tiến-trình. Đức Chúa Trời Tam-Nhất đã-trải-qua-tiến-trình
chính là yếu tố mà chúng ta đã được cấu tạo.
Có thể một vài người
nói rằng: “Tôi không cảm thấy tôi là đã được cấu tạo bằng Đức Chúa Trời Tam-Nhất
đã-trải-qua-tiến-trình”. Anh em có thể không cảm thấy điều này, nhưng anh em cần
phải tin. Là Cơ Đốc nhân, chúng ta cần sống bởi đức tin và bước đi bởi đức tin
chứ không bởi mắt thấy (5:7). Chúng ta là người tin chứ không phải là người bước
đi bởi mắt thấy. Anh em là người tin hay là người bước đi bởi mắt thấy? Người
tin là người không tin vào những điều có thể thấy được, nhưng nhận lấy những điều
không thấy, thừa nhận, và nhận biết bởi đức tin. Để làm người bước đi theo cảm
nhận thì tệ hơn là người bước đi theo mắt thấy. Có thể anh em không cảm nhận rằng
mình đang sống ở một nơi nào đó. Thật ra, anh em đang sống ở đó. Cảm nhận thì
không đáng tin. Anh em có thể cảm nhận rằng anh em kỳ diệu nhưng tình trạng của
anh em thì thật đáng thương. Đừng tin vào cảm xúc của anh em nhưng hãy tin vào
sự kiện. Sự kiện là chúng ta đã được đem vào trong Đức Chúa Trời. Đức Chúa Trời
Tam-Nhất đã-trải-qua-tiến-trình chính là yếu tố mà chúng ta đã được cấu tạo. Có
thể anh em không cảm nhận được cấu tạo, hay là có điều gì đó thay đổi bên trong
anh em. Tôi xin lập lại, hãy làm người tin, tức là người bước đi bởi đức tin chứ
đừng làm người bước đi theo cảm xúc. Khi Đức Chúa Trời phán một điều gì đó, anh
em cũng nên nói điều đó chỉ vì Kinh Thánh bảo anh em như vậy. Kinh Thánh khải
thị rằng Đức Chúa Trời đã trải qua sự nhục hoá, đời sống làm người, sự đóng
đinh, và sự phục sinh. Bây giờ trong sự phục sinh, Ngài là Linh ban-sự-sống cư
ngụ trong linh chúng ta như là yếu tố cấu tạo. Kinh Thánh bảo như vậy và chúng
ta phải tin điều đó.
Anh Nee thường nói
rằng trước hết chúng ta có sự kiện, rồi mới có đức tin và sau đó là kinh nghiệm.
Trình tự này không phải là kinh nghiệm, rồi tới đức tin, rồi mới tới sự kiện. Sự
kiện luôn luôn đi trước nhất. Nhưng làm thế nào chúng ta biết về sự kiện? Sự kiện
được ghi lại trong Tân Ước. Giao ước này là một chúc thư, là điều gì đó mạnh
hơn và tốt hơn giao ước. Giao ước là một thoả thuận tương tự như bản hợp đồng.
Nhưng chúc thư, hay di chúc nói đến điều gì đó đã hoàn thành rồi. Giả sử một
chúc thư nói rằng một người được cho một triệu đô-la. Chứng cớ, bằng chứng của
điều này là chúc thư.
Tân Ước là một chúc
thư. Chúc thư này nói rằng Đức Chúa Trời đã-trải-qua-tiến-trình bây giờ đang ở
trong chúng ta, rằng Ngài là phần hưởng của chúng ta, và Ngài là yếu tố mà với
yếu tố đó, chúng ta được cấu tạo. Vâng, chúng ta đã được cấu tạo. Chúng ta cần
tin sự kiện này giống như tin rằng chúng ta là con cái Đức Chúa Trời. Đôi khi
ma quỉ nói: “Hãy nhìn lại mình xem, ngươi mà là con cái Đức Chúa Trời sao? Làm
thế nào ngươi có thể nói rằng ngươi là con cái Đức Chúa Trời trong khi ngươi nổi
nóng sáng nay?”. Thậm chí khi chúng ta nổi nóng, chúng ta cũng phải cứ tin rằng
chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời. Vì thế, chúng ta nên nói: “Sa-tan, cho
dù ta có nổi nóng nhiều lần nhưng ta vẫn là con của Đức Chúa Trời. Việc ta nổi
nóng không thay đổi sự kiện ta là con của Đức Chúa Trời. Sa-tan kia, bằng lời
tuyên bố của ta về sự kiện này, ta xua đuổi ngươi”.
III. SỐNG MỘT ĐỜI SỐNG
CHỊU ĐÓNG ĐINH ĐỂ BIỂU LỘ SỰ SỐNG PHỤC SINH BỞI QUYỀN NĂNG SIÊU VIỆT CỦA BÁU VẬT
TRONG NHỮNG CHIẾC BÌNH BẰNG ĐẤT
A. Báu Vật Trong
Chiếc Bình Bằng Đất
2 Cô-rin-tô 4:7 mở
đầu bằng những từ: “Nhưng chúng tôi đựng của báu này trong những chiếc bình bằng
đất”. Từ “nhưng” cho thấy sự tương phản với những gì nói trước đó. Trong câu 6,
Phao-lô nói rằng “Vì Đức Chúa Trời là Đấng có phán: ‘Sự sáng phải từ sự tối tăm
soi ra’ cũng đã soi vào lòng chúng tôi, để khiến sự tri thức về vinh hiển của Đức
Chúa Trời ở nơi mặt Jesus Christ từ chúng ta mà sáng chói ra”. Cụm từ “của
báunày” chỉ về câu 6. Vì sự chiếu sáng trong lòng chúng ta, chúng ta có của báu
này, tức của báu kỳ diệu, quý giá và lạ lùng. Tuy nhiên, chúng ta có của báu
này trong những chiếc bình bằng đất, trong điều gì đó không một chút phi thường.
Vì của báu ở trong những chiếc bình bằng đất nên Phao-lô mở đầu câu 7 bằng từ
“nhưng”.
Cả câu 7 như thế
này: “Nhưng chúng ta có của báu này trong những chiếc bình bằng đất, để sự vượt
trỗi của quyền năng thuộc về Đức Chúa Trời chứ không thuộc về chúng ta”. Tiếng
Hy Lạp dịch chữ vượt trỗi cũng có nghĩa là siêu việt, vô song, vĩ đại vượt bậc.
Chúng ta là những chiếc bình bằng đất chứng minh rằng sự vượt trỗi của quyền
năng là thuộc về Đức Chúa Trời chứ không thuộc về chúng ta. Ở đây dường như
Phao-lô đang nói: “Tôi không hơn gì một chiếc bình bằng đất, thấp thỏi và không
xứng đáng. Trong chính tôi, tôi là một tội nhân sa ngã và thấp hèn. Làm thế nào
một người như thế có thể biểu lộ lẽ thật và chiếu sáng vinh hiển của Phúc Âm?
Tôi không có quyền năng để làm điều này. Sự vượt trỗi của quyền năng không thuộc
về tôi mà thuộc về Đức Chúa Trời. Dù tôi là một chiếc bình bằng đất không xứng
đáng, nhưng Đức Chúa Trời đã chiếu sáng của báu quý giá này vào trong tôi. Bây
giờ của báu này trở thành nguồn của quyền năng làm mạnh mẽ tôi và làm cho tôi
có thể chiếu sáng vinh hiển của Đức Chúa Trời và để biểu minh lẽ thật”.
Không có động cơ thần
thượng bên trong anh em sao? Của báu kỳ diệu bây giờ là động cơ thần thượng làm
cho chúng ta có quyền năng từ bên trong. Động cơ này có thể không quấy rầy
chúng ta khi chúng ta đang ngủ, nhưng suốt ngày động cơ này sẽ quấy rầy chúng
ta. Những người rao giảng thường bảo người khác rằng Đấng Christ sẽ ban sự bình
an. Theo kinh nghiệm của tôi, Ngài thường không cho tôi sự bình an. Ngài ban
cho tôi sự vui mừng, nhưng thay vì cho tôi sự bình an thì Ngài quấy rầy tôi. Nếu
tôi không đi theo sự quấy rầy bên trong của Ngài, tôi không thể có bình an. Đôi
khi tôi hợp tác với sự quấy rầy của Ngài thì có sự vui mừng, nhưng vẫn không có
bình an.
Theo kinh nghiệm của
anh em, anh em có thể ngồi yên tại nhà mà vui hưởng sự bình an không? Có đúng
là Chuá thường quấy rầy anh em ở bên trong không? Christ là Đấng quấy rầy. Của
báu này là cuả báu sống và năng động hoạt động bên trong chúng ta. Của báu này
thậm chí còn thúc giục chúng ta phải làm điều gì đó. Theo 2 Cô-rin-tô chương 5,
tình yêu của Christ thúc ép chúng ta. Christ không chỉ quấy rầy chúng ta mà
Ngài còn thúc ép, thúc bách chúng ta. Đây là quyền năng, nguồn sức mạnh để các
sứ đồ ăn ở như thế hầu chiếu sáng Phúc Âm và biểu minh lẽ thật.
B. Một Đời Sống Chịu
Đóng Đinh Để Biểu Lộ Sự Sống Phục Sinh
Bắt đầu với câu 8,
chúng ta thấy rằng các sứ đồ không sống một đời sống huy hoàng, nhưng một đời sống
chịu đóng đinh. Sống một đời sống chịu đóng đinh là sống một đời sống dưới sự
đè nén. Giống như hạt lúa mì ở dưới cối xay. Khi Chuá Jesus còn trên đất, Ngài
đã sống một đời sống dưới sự đè nén. Mẹ Ngài, các em Ngài, tất cả các môn đồ,
những kẻ chống đối, và những người bắt bớ đã thực hiện chức năng như những chiếc
cối xay. Hằng ngày, Chuá Jesus ở dưới chiếc cối xay đó.
Người ta sử dụng
hai tảng đá để xay lúa: một tảng đá cố định thì ở dưới và một tảng đá chuyển động
thì ở trên. Chúng ta có thể nói rằng người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê là tảng
đá ở dưới đối với Chuá Jesus, và tảng đá nghiền ở trên, tức tảng đá có thể chuyển
động là mẹ, anh em và các môn đồ Ngài. Để xay nghiền, đá ở dưới cần đá ở trên
tương xứng và phối hợp với nó. Điều này có nghĩa là mẹ, anh em và các môn đồ của
Chuá đã giúp người Pha-ri-si và người Sa-đu-sê nghiền Chuá Jesus.
Kinh nghiệm của
chúng ta ngày nay cũng cùng một nguyên tắc như vậy. Những người chống đối sự
khôi phục của Chuá là đá ở dưới, đá nghiền đứng yên một chỗ. Nhưng vợ, chồng,
trưởng lão trong Hội thánh, đồng công, và các thánh đồ là đá ở trên. Do đó, các
thành viên của gia đình và các thánh đồ trong Hội thánh cộng tác với những người
bắt bớ và những kẻ chống đối đặt chúng ta dưới sự nghiền nát. Thưa anh em, có
phải trong kinh nghiệm của anh em, vợ của anh em nghiền anh em nhiều hơn những
kẻ chống đối không? Sự phê bình của người vợ là một sự nghiền nát. Nếu không có
những người thân yêu chung quanh chúng ta, thì những kẻ chống đối sẽ không thể
xay nghiền chúng ta. Sự xay nghiền thật sự đến từ những người thân của chúng
ta. Những kẻ chống đối chỉ đặt nền tảng để cho sự xay nghiền diễn ra. Một khi nền
tảng này đặt xong, thì chồng hoặc vợ hoặc một thánh đồ nào đó sẽ làm công việc
nghiền nát thật sự.
Nếu đọc lại bốn
Sách Phúc Âm, anh em sẽ thấy rằng chính những người gần gũi Chuá Jesus là người
làm cho Ngài có kinh nghiệm xay nghiền. Khi Chuá bị bắt bớ, Ngài rất vui. Nhưng
một ngày kia, đang khi rao giảng cho quần chúng, những người bạn của Ngài nghĩ
rằng Ngài cuồng (Mác 3:21). Có lần, Chuá Jesus thậm chí đã hỏi: “Ai là mẹ Ta và
ai là anh em Ta?” (Mat. 12:48). Rồi Ngài phán: “Vì hễ ai làm theo ý chỉ của Cha
Ta ở trên trời, thì người đó là anh em, chị em và là mẹ của Ta” (Mat. 12:50).
Ngày nay, chúng ta cũng kinh nghiệm việc xay nghiền từ những người thân, là những
người yêu thương, chăm sóc chúng ta theo cách thiên nhiên.
1. Bị Đè Nén Đủ
Cách Nhưng Không Đến Khốn Cùng
Trong câu 8,
Phao-lô nói: “Chúng tôi bị đè nén đủ cách nhưng không đến khốn cùng; bị túng thế
nhưng không thất vọng”. Trong tiếng Hy Lạp, chữ “bị đè nén” cũng có thể dịch là
“bị ép mọi bề”. Chữ khốn cùng cũng có nghĩa là “chật hẹp, tù túng”. Việc mô tả
về đời sống của các sứ đồ từ câu này cho thấy rằng họ đã sống một đời sống chịu
đóng đinh trong sự phục sinh, hoặc là đời sống phục sinh dưới sự giết chết của
thập tự giá để thực hiện chức vụ của họ.
2. Bị Túng Thế
Nhưng Không Thất Vọng
Theo nghĩa đen, bị
túng thế ở đây có nghĩa là không tìm được lối ra. Chữ được dịch là thất vọng
theo nghĩa đen là hoàn toàn không thể tìm được lối ra; tức là, con đường hoàn
toàn đã bị đóng chặt. Ở đây, vị sứ đồ đang nói họ bị túng thế không thể tìm được
lối ra, nhưng không thất vọng, tức là không phải là không thể tìm được lối ra.
3. Bị Rượt Đuổi
Nhưng Không Bị Bỏ Rơi
Câu 9a chép: “Bị rượt
đuổi (ngược đãi) nhưng không bị bỏ rơi”. Chữ ngược đãi tiếng Hy Lạp cũng có
nghĩa là bị kẻ thù rượt đuổi. Bị bỏ rơi là bị ruồng bỏ, bị rời bỏ; theo nghĩa
đen là bị bỏ lại đằng sau trong hoàn cảnh khắc nghiệt nào đó.
4. Bị Đánh Ngã Nhưng
Không Đến Diệt Mất
Câu 9b chép: “Bị
đánh ngã nhưng không đến diệt mất”. Đánh ngã cũng có nghĩa là hạ xuống, và diệt
mất cũng có nghĩa là hết sức chịu đựng như trong câu 3, tức là bị giết chết.
5. Thân Thể Hằng
Mang Sự Chết Của Jesus
Câu 10 tiếp: “Thân
thể hằng mang sự chết của Jesus hầu cho sự sống của Jesus cũng được tỏ ra trong
thân thể chúng tôi”. Sự chết ở đây có nghĩa là giết chết, làm cho chết, tức là
công việc của sự chết, công tác của thập tự giá mà Chuá Jesus đã chịu khổ và bền
chịu. Khi còn trên đất, hằng ngày Chuá ở dưới sự giết chết. Hằng ngày, Ngài
kinh nghiệm sự giết chết. Các sứ đồ cũng kinh nghiệm điều này. Hằng ngày, Ngài ở
dưới sự giết chết; hằng ngày, Ngài đang bị đặt vào chỗ chết.
Các sứ đồ đã kinh
nghiệm công tác giết chết này “hầu cho sự sống của Jesus cũng có thể được tỏ ra
trong thân thể chúng tôi”. Từ được dịch là “hầu cho” cũng có nghĩa là để, kết
quả là. Sự giết chết của thập tự giá dẫn đến sự biểu lộ của sự sống phục sinh.
Sự giết chết hằng ngày này là để giải phóng sự sống thần thượng trong sự phục
sinh. Sự sống trong câu 10 là sự sống phục sinh, là sự sống mà Chuá Jesus đã sống
và đã biểu lộ qua công tác của thập tự giá.
Sự nghiền nát liên
tục hằng ngày hành động vì một mục đích đặc biệt: để sự sống của Jesus có thể
được biểu lộ trong thân thể của chúng ta. Sự sống này là sự sống phục sinh.
Chuá Jesus đã sống sự sống phục sinh thậm chí trước khi Ngài chịu đóng đinh. Sự
sống mà Ngài đã sống trên đất là sự sống phục sinh. Sự sống phục sinh này là sự
sống có thể chịu được sự giết chết.
Trong câu 11,
Phao-lô nói tiếp: “Bởi chúng tôi là kẻ sống, vì cớ Jesus mà hằng bị nộp cho sự
chết, hầu cho sự sống của Jesus, cũng được tỏ ra trong xác thịt hay chết của
chúng tôi”. Danh xưng Jesus trong câu 10 và 11 hàm ý rằng các sứ đồ đã sống một
đời sống như Chuá Jesus đã sống trên đất, một đời sống dưới sự giết chết của thập
tự giá để biểu lộ sự sống phục sinh. Cách dùng hoán đổi của từ “xác thịt” và từ
“thân thể” trong những câu này cho thấy rằng xác thịt hay chết thì ở trong thân
thể sa ngã của chúng ta.
6. Sự Chết Hành Động
Trong Họ Còn Sự Sống Trong Tín Đồ
Câu 12 chép: “Như
thế sự chết hành động trong chúng tôi còn sự sống trong anh em”. Khi chúng ta ở
dưới sự giết chết của sự chết của Chuá thì sự sống phục sinh của Ngài được truyền
vào trong tín đồ qua chúng ta. Sự truyền dẫn sự sống vào trong người khác luôn
luôn là kết quả của việc chúng ta chịu sự giết chết của thập tự giá. Trong câu
12, dường như Phao-lô muốn nói: “Chúng tôi đang chết nhưng anh em người
Cô-rin-tô đang được làm cho sống. Việc chúng tôi chết truyền dẫn sự sống vào
trong anh em và làm cho anh em sống. Đối với chúng tôi đó là vấn đề bị nộp cho
sự chết; còn đối với anh em đó là vấn đề truyền sự sống”.
7. Có Linh Của Đức
Tin
Trong câu 13,
Phao-lô nói: “Vì chúng tôi có đồng một lòng tin (linh của đức tin), y như có
chép: ‘Tôi đã tin, cho nên tôi nói’ chúng tôi cũng tin, cho nên chúng tôi cũng
nói”. “Đồng một linh” nói đến cùng một linh như được trích từ Thi Thiên 116:10.
Về Linh trong câu
13, Alfort nói: “Không rõ ràng là Thánh Linh, – nhưng cũng không chỉ là tính
khí con người: Thánh Linh nội cư dầm thấm và là đặc điểm cho toàn bộ con người
được đổi mới”. Vincent nói: “Linh của đức tin không hẳn là Thánh Linh, mặt khác
cũng không phải là khả năng hay tính khí con người, nhưng là sự hoà quyện của cả
hai”. Điều này có nghĩa rằng đó là sự hoà quyện giữa Thánh Linh với nhân linh của
chúng ta. Chúng ta phải vận dụng linh như thế để tin và nói như tác giả Thi
Thiên đã nói, những điều mà chúng ta đã kinh nghiệm Chuá, nhất là sự chết và sự
phục sinh của Ngài. Đức tin ở trong linh chúng ta là linh được hoà quyện với
Thánh Linh chứ không phải ở trong tâm trí. Sự nghi ngờ thì ở trong tâm trí. Chữ
“linh” ở đây cho thấy rằng chính bởi linh hoà quyện mà các sứ đồ đã sống một đời
sống chịu đóng đinh trong sự phục sinh để thực hiện chức vụ của họ.
Câu 14 chép: “Vì biết
rằng Đấng đã khiến Chúa Jesus sống lại, cũng sẽ khiến chúng tôi đồng sống lại với
Jesus, và trình diện chúng tôi với anh em cho Ngài”. Điều này cho thấy rằng các
sứ đồ xem chính mình như người đã chết (1:9), vì họ luôn luôn bị giao nộp cho sự
chết vì mục đích của Chuá. Hi vọng duy nhất của họ là ở trong Đức Chúa Trời, Đấng
đã khiến Chuá Jesus sống lại và là Đấng cũng làm cho họ sống lại nữa. Họ sống bằng
loại đức tin này.
Trong câu 15,
Phao-lô tuyên bố: “Bởi chưng mọi sự đều vì cớ anh em, hầu cho ân điển nhơn nhiều
người càng thêm nhiều, để khiến sự cảm tạ cũng càng thêm dư dật mà làm vinh hiển
cho Đức Chúa Trời”. Theo văn mạch, ân điển là chính Christ, Đấng sống trong các
sứ đồ như là sự sống và sự cung ứng sự sống của họ để họ sống một đời sống chịu
đóng đinh để biểu lộ sự sống phục sinh hầu cho họ có thể thực hiện chức vụ của
họ vì giao ước mới của Đức Chúa Trời. Khi các sứ đồ ở dưới sự giết chết thì sự
sống được truyền vào người khác và ân điển dư dật qua nhiều người. Kết quả là sự
cảm tạ cũng sẽ dư dật. Phao-lô không quan tâm đến sự chịu khổ vì ông nhận biết
rằng việc ông bị giết chết sẽ truyền sự sống vào nhiều người và sự sống này trở
thành ân điển đối với họ. Kết quả là mọi người sẽ cảm tạ Đức Chúa Trời. Đây là
sự sống mà các sứ đồ đã sống, một sự sống chịu đóng đinh để biểu lộ sự sống phục
sinh bởi quyền năng vượt trỗi của của báu trong chiếc bình bằng đất.
Sớm muộn gì tất cả
chúng ta cũng kinh nghiệm sự nghiền nát này. Chúng ta sẽ bị nghiền giữa tảng đá
trên và tảng đá dưới. Trong vấn đề này, chúng ta không có sự lựa chọn vì tất cả
chúng ta cần sự nghiền nát. Chính sự nghiền nát này làm cho sự sống phục sinh
được biểu lộ.
Vâng, trong cách
nhìn của Đức Chúa Trời, chúng ta đã được cấu tạo rồi nhưng vẫn còn cần sự thử
nghiệm để xác định chúng ta đã được cấu tạo bao nhiêu, và cũng cần sự nghiền
nát để tiến hành sự cấu tạo này theo cách thực tiễn và kinh nghiệm. Dù chúng ta
đã được cấu tạo nhưng vẫn còn cần sự cấu tạo này được thực hiện. Điều này được
thực hiện chủ yếu qua sự chống đối và sự nghiền nát của những người yêu dấu gần
gũi với chúng ta.
Mỗi Hội thánh là một
nhà máy xay. Có lẽ anh em không thích Hội thánh địa phương của mình và muốn
chuyển đến một nơi khác. Nếu anh em chuyển đi để thoát khỏi sự nghiền nát thì
anh em sẽ thấy rằng ở nơi anh em chuyển đến, anh em thậm chí còn bị nghiền nát
nhiều hơn. Do đó, nếu anh em chuyển đi để thoát khỏi sự nghiền nát thì anh em
nên chuẩn bị để bị nghiền nát nhiều hơn. Chúng ta không thể tránh khỏi điều đó.
Điều này đã được chỉ định cho chúng ta; đó là phần định của chúng ta. Ngợi khen
Chuá vì sự nghiền nát đã làm cho sự sống phục sinh được biểu lộ!